Du Lich Huế không còn là cái tên xa lạ đối với các tín đồ đam mê du lịch thích khám phá, trải nghiệm và nghỉ dưỡng. Hằng năm, nơi đây đón hàng triệu lượt khách du lịch trong và ngoài nước bởi các món ăn ngon tại Huế, các địa danh du lịch Huế cùng với các di tích lịch sử ở Huế khiến cho du lịch ở Huế trở thành điểm du lịch nổi tiếng không chỉ ở Việt Nam mà còn ở khu vực Châu Á. Tuy nhiên, không phải ai cũng có kinh nghiệm khi đi du lịch Huế tự túc. Sau đây HItour.vn gửi đến các bạn cẩm nang chi tiết, hy vọng cẩm nang này sẽ đồng hành cùng bạn trên các chuyến vivu Huế sắp tới.
HItour sẽ đề xuất và cung cấp thông tin chi tiết cho bạn về các địa điểm du lịch ở Huế để bạn có thể tự sắp xếp, lên kế hoạch cho chuyến đi của mình được tốt nhất.(Danh sách sắp xếp theo thứ tự Mục lục bài viết)
Huế là một thành phố trực thuộc tỉnh Thừa Thiên – Huế, Việt Nam.
Huế từng là kinh đô (cố đô Huế) của Việt Nam thời phong kiến dưới triều Tây Sơn (1788 - 1801) và nhà Nguyễn (1802 – 1945). Hiện nay, thành phố là một trong những trung tâm về văn hoá – du lịch, y tế chuyên sâu, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ của Miền Trung - Tây Nguyên và cả nước. Những địa danh nổi bật là sông Hương và những di sản để lại của triều đại phong kiến.
Thành phố Huế có năm danh hiệu UNESCO ở Việt Nam:
Ngoài ra, Huế còn là một trong những địa phương có di sản hát bài chòi đã được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
Diện tích tự nhiên 71,68 km2, dân số năm 2012 ước là 344,581 người. Tính đến năm 2018, dân số thành phố là 455,230 người (tính luôn cả người không đăng kí cư trú).
Thành phố tọa lạc hai bên bờ hạ lưu sông Hương, cách thủ đô Hà Nội 668km về phía nam, cách Thành phố Hồ Chí Minh 1039km về phía bắc, cách Đà Nẵng 105km về phía bắc.
Thành phố Huế có sự ngoại lệ về khí hậu so với Bắc Bộ và Nam Bộ, vì nơi đây khí hậu khắc nghiệt và có sự khác nhau giữa các vùng và khu vực trong toàn tỉnh. Huế có khí hậu nhiệt đới gió mùa, thuộc Phân loại khí hậu Köppen. Mùa khô từ tháng Ba đến tháng Tám, với nhiệt độ khá cao từ 35 - 40oC (95 đến 104oF). Mùa mưa từ tháng Tám đến tháng Giêng, với một mùa lũ từ tháng Mười, trở đi. Nhiệt độ trung bình mùa mưa là 20oC (68oF), đôi khi thấp nhất là 9oC (48oF). Mùa xuân kéo dài từ tháng giêng đến cuối tháng Hai.
Khoảng tháng 3 hàng năm, thời tiết Huế lúc này đang còn tương đối mát mẻ, trời cũng hiếm khi mưa nên các bạn có thể đi Huế vào dịp này, nhất là những gia đình có trẻ em và người già.
Dịp lễ 30 - 4 ở Huế thường tổ chức các lễ hội festival với rất nhiều hoạt động văn hóa đặc sắc, ngoài ra vào dịp này cũng thường có lễ hội pháo hoa quốc tế ở Đà Nẵng, các bạn có thể lên lịch trình đi du lịch Huế kết hợp với Du Lich Đà Nẵng rất phù hợp.
Thành phố Hồ Chí Minh cách Huế khoảng gần 1039km về phía bắc, thời gian di chuyển giữa 2 thành phố này sẽ mất khoảng 25 tiếng. Hằng ngày có rất nhiều các tuyến xe giường nằm chất lượng cao đi Huế, các bạn ở Sài Gòn bạn mua vé ở bến xe Miền Đông.
Tham khảo một xe khách chất lượng cao đi Huế từ Sài Gòn:
Xe khách Phương Trang
Xe khách Hạnh Cafe
Xe khách Thuận Thảo
Xe khách Minh Phương
Từ Sài Gòn hàng ngày đều có 5 chuyến tàu Thống Nhất khởi hành đi Huế theo bảng giờ tàu như dưới đây, tùy vào kế hoạch riêng mà các bạn chọn giờ tàu cho phù hợp.
Hàng ngày đều có chuyến bay từ TP.HCM đến Huế với nhiều hãng như Vietnam Airlines, VietjetAir, Jetstar với giá vé khứ hồi khoảng từ 1,500.000đ - 2,000,000đ.
Sân bay Phú Bài cách trung tâm Thành phố Huế khoảng 40km, các bạn có thể sử dụng dịch vụ xe buýt đưa khách từ sân bay về trung tâm thành phố Huế với giá vé khoảng 50,000đ/người.
Thành phố Hà Nội cách Huế khoảng gần 668km về phía Nam, thời gian di chuyển giữa 2 thành phố này sẽ mất khoảng 13 tiếng. Hằng ngày có rất nhiều các tuyến xe giường nằm chất lượng cao đi Huế, các bạn ở Hà Nội bạn mua vé ở bến xe Giáp Bát, bến xe Nước Ngầm, bến xe Lương Yên..
Xe khách Hưng Thành
Xe khách Hoàng Long
Xe khách An Phú
Xe khách Camel
Từ Hà Nội hàng ngày đều có 5 chuyến tàu Thống Nhất khởi hành đi Huế theo bảng giờ tàu như dưới đây, tùy vào kế hoạch riêng mà các bạn chọn giờ tàu cho phù hợp.
Ngoài các chuyến tàu Thống Nhất, từ Hà Nội còn có chuyến tàu SE19 đi Đà Nẵng, tàu này xuất phát từ ga Hà Nội lúc 8:00 và tới Huế vào khoảng 10:00 sáng hôm sau.
Hàng ngày đều có chuyến bay từ Hà Nội đến Huế với nhiều hãng như Vietnam Airlines, VietjetAir với giá vé khứ hồi khoảng từ 2,000,000đ - 2,500,000đ.
Sân bay Phú Bài cách trung tâm Thành phố Huế khoảng 40km, các bạn có thể sử dụng dịch vụ xe buýt đưa khách từ sân bay về trung tâm thành phố Huế với giá vé khoảng 50,000đ/người.
Với những địa điểm ngoại thành hoặc nội thành Huế ở xa hay gần, hãy thuê cho mình một chiếc xe máy vì đây là phương tiện lưu thông thuận tiện và chủ động nhất, trang bị một tấm bản đồ du lịch Huế và tự mình khám phá Huế nhé. Ở Huế muốn thuê một chiếc xe máy, các bạn chỉ cần tới khu vực đường Hùng Vương (từ cầu Trường Tiền đến ngã 4 Hùng Vương - Nguyễn Tri Phương), khu vực phố Tây trên đường Lê Lợi, các tuyến đường Phạm Ngũ Lão, Chu Văn An.
Một số địa điểm thuê xe máy ở Huế dưới đây với giá thuê từ 150,000đ - 200,000đ/xe/ngày:
Thuê xe máy Trường Thiện
Thuê xe máy Anh Tiến
Thuê xe máy Anh Cường
Thuê xe máy tại Huế
Hướng dẫn tham quan Đại Nội Huế thì nên thử xích lô ở Huế để cảm nhận hết thú vị nhất là ngắm Huế trên một chiếc xích lô, vừa thân thiện, vừa dễ cảm nhận được cái sự yên bình của Huế, nét mộc mạc, bình dị ở đây.
Cũng giống như Xích Lô phương tiện Xe đạp chỉ phù hợp di chuyển những quảng đường ngắn ở những địa điểm du lịch Huế trong nội thành, các địa điểm cho thuê xe đạp ở Huế, nằm tập trung ở đường Hùng Vương, quãng đường từ cầu Trường Tiền đến ngã 4 Hùng Vương giao với Nguyễn Tri Phương. Khu vực thứ 2 là đường Lê Lợi, khu phố Tây đối diện khách sạn Hương Giang, các đường như Phạm Ngũ Lão, Chu Văn An đều có cho thuê xe đạp.
Taxi là phương tiện giao thông di chuyển phù hợp cho nhóm mà có người lớn tuổi và trẻ em đi cùng, di chuyển cũng rất thuận tiện dù trong nội ô hay ngoại ô Huế đều được.
Taxi ở Huế theo kinh nghiệm thì mình thấy hàng Taxi Thành Công là hãng rẻ nhất cùng chất lượng đi kèm với sự hiện đại. Điện thoại: 02343.57.57.57
Bạn có thể tham khảo thêm một số hãng Taxi ở Huế khác:
Dịch vụ thuyền rồng trên sông Hương do đội thuyền rồng ban quản lý bên thuyền tổ chức với nhiều dịch vụ về du thuyền trên sông Hương, nghe ca Huế trên sông Hương, thuê thuyền tham quan các di tích cố đô Huế, đặt ăn trên thuyền rồng sông Hương, thuê thuyền vào các ngày lễ lớn của Điện Hòn Chén...
Ngồi trên thuyền du khách sẽ được trải nghiệm với cảm giác lênh đênh trên sông nước, cùng nhau thưởng thức ca Huế và thả hoa đăng, khi đó du khách mới có thể thấm dần những hương vị, âm sắc của Huế. Giá cả việc thuê thuyền còn tuỳ vào việc bạn chọn dịch vụ tuyến du lịch bằng thuyền nào.
Nhà nghỉ là loại hình lưu trú phổ biến nhất, có ở hầu khắp các địa phương cũng như các địa điểm du lịch ở Huế. Với lợi thế giá rẻ cùng sự dễ tìm, với những ai không có yêu cầu quá cao về việc lưu trú, đây có thể là một lựa chọn phù hợp.
Bạn có thể tham khảo một số Nhà nghỉ ở Huế dưới đây:
Nhà Nghỉ Gia Anh
Nhà Nghỉ Cát An
Nhà nghỉ Anh Tuấn
Nhà Nghỉ Khôi Nguyên
Những homestay này có ưu điểm là giá phòng, luôn có kèm các dịch vụ ăn uống giá cũng hợp lý, kiểu homestay mới cho phép khách du lịch tận hưởng không gian riêng tư. Đa phần các homestay hiện nay đều là các căn hộ tách biệt với chủ. Đặc biệt, các địa điểm này thường được trang trí rất đẹp.
Bạn có thể tham khảo một số Homestay ở Huế dưới đây:
Lucky Homestay
Sala Homestay Hue
Green Home Homestay
Hue Sweethouse Homestay
Hệ thống khách sạn tại Huế tập trung chủ yếu ở khu vực trung tâm thành phố Huế số lượng khách sạn khá nhiều và rất da dạng về dịch vụ từ 2 sao, 3 sao với chất lượng tốt nổi bật, giá cả phải chăng. Đặc biệt là dịch vụ của các khách sạn 4 sao, khách sạn 5 sao ở Huế, tuy chi phí cao nhưng chắc chắn những gì bạn nhận lại được sẽ khiến bạn vô cùng hài lòng.
Bạn có thể tham khảo một số Khách sạn ở Huế dưới đây:
The Scarlett Boutique Hotel
Hong Thien Ruby Hotel
Beaulieu Boutique Hotel
Khách sạn Thân Thiện
Hoàng thành Huế hay còn được gọi là Đại Nội, là vòng thành thứ hai bên trong Kinh thành Huế, có chức năng bảo vệ các cung điện quan trọng nhất của triều đình, các miếu thờ tổ tiên nhà Nguyễn và bảo vệ Tử Cấm thành nơi dành riêng cho vua và hoàng gia. Người ta thường gọi chung Hoàng thành và Tử Cấm thành là Đại Nội.
Hoàng thành được xây dựng năm 1804, nhưng mãi đến năm 1833 đời vua Minh Mạng mới hoàn chỉnh toàn bộ hệ thống cung điện với khoảng 147 công trình.
Hoàng thành có mặt bằng gần vuông, mỗi bề khoảng 600 mét, xây bằng gạch, cao 4m, dày 1m, xung quanh có hào bảo vệ, có 4 cửa để ra vào: Cửa chính (phía Nam) là Ngọ Môn, phía Đông có cửa Hiển Nhơn, phía Tây có cửa Chương Đức, phía Bắc có cửa Hòa Bình. Các cầu và hồ được đào chung quanh phía ngoài thành đều có tên Kim Thủy.
Hoàng thành và toàn bộ hệ thống cung điện bên trong được bố trí trên một trục đối xứng, trong đó trục chính giữa được bố trí các công trình chỉ dành cho vua. Các công trình ở hai bên được phân bố chặt chẽ theo từng khu vực, tuân thủ nguyên tắc (tính từ trong ra): "tả nam hữu nữ", "tả văn hữu võ". Ngay cả trong các miếu thờ cũng có sự sắp xếp theo thứ tự "tả chiêu hữu mục" (bên trái trước, bên phải sau, lần lượt theo thời gian).
Mặc dù có rất nhiều công trình lớn nhỏ được xây dựng trong khu vực Hoàng thành nhưng tất cả đều được đặt giữa thiên nhiên với các hồ lớn nhỏ, vườn hoa, cầu đá, các hòn đảo và các loại cây lưu niên tỏa bóng mát quanh năm. Mặc dù quy mô của mỗi công trình có khác nhau, nhưng về tổng thể, các cung điện ở đây đều làm theo kiểu "trùng lương trùng thiềm" (hay còn gọi là "trùng thiềm điệp ốc" - kiểu nhà kép hai mái trên một nền), đặt trên nền đá cao, vỉa ốp đá Thanh, nền lát gạch Bát Tràng có tráng men xanh hoặc vàng, mái cũng được lợp bằng một loại ngói đặc biệt hình ống có tráng men thường gọi là ngói Thanh lưu ly (nếu có màu xanh) hoặc Hoàng lưu ly (nếu có màu vàng). Các cột được sơn thếp theo mô típ long - vân (rồng - mây). Nội thất cung điện thường được trang trí theo cùng một phong cách nhất thi nhất họa (một bài thơ kèm một bức tranh) với rất nhiều thơ bằng chữ Hán và các mảng chạm khắc trên gỗ theo đề tài bát bửu, hay theo đề tài tứ thời.
Khu vực phòng vệ: gồm vòng thành bao quanh bên ngoài, cổng thành, các hồ (hào), cầu và đài quan sát.
Khu vực cử hành đại lễ, gồm các công trình:
Khu vực các miếu thờ: được bố trí ở phía trước, hai bên trục dọc của Hoàng thành theo thứ tự từ trong ra gồm:
Khu vực dành cho bà nội và mẹ vua (phía sau, bên phải), gồm hệ thống Trường Sanh cung (dành cho các Thái hoàng thái hậu) và Diên Thọ cung (dành cho các Hoàng thái hậu).
Khu vực dành cho các hoàng tử học tập, giải trí như vườn Cơ Hạ, điện Khâm văn... (phía sau, bên trái).
Ngoài ra còn có kho tàng (Phủ Nội vụ) và các xưởng chế tạo đồ dùng cho hoàng gia (phía trước vườn Cơ Hạ).
Khu vực Tử Cấm thành nằm trên cùng một trục Bắc - Nam với Hoàng thành và Kinh thành, gồm một vòng tường thành bao quanh khu vực các cung điện như:
Đến nay, trải qua bao biến động và thời gian, hàng trăm công trình kiến trúc ở Đại Nội chỉ còn lại ít ỏi chiếm không đầy một nửa con số ban đầu.
Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế nằm tại số 3, đường Lê Trực, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Đây là Bảo tàng được thành lập sớm nhất ở Huế (năm 1923), với tên gọi đầu tiên là Musée Khải Định. Sau đó Bảo tàng này nhiều lần được đổi tên: Tàng Cổ Viện Huế (1947) Viện Bảo tàng Huế (1958), Nhà trưng bày Cổ vật (1979), Bảo tàng Cổ vật Huế (1992), Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế (1992).
Khuôn viên của Bảo tàng rộng 6.330m2, tòa nhà chính ở giữa diện tích 1.185m2 và một số nhà phụ dùng làm các kho tàng trữ cổ vật và sân vườn.
Tòa nhà chính vốn là Điện Long An trong cung Bảo Định được dời ra đây năm 1909 để làm Tân Thơ viện của trường Quốc Tử Giám. Năm 1923 theo đề nghị của Hội Đô Thành Hiếu Cổ, tòa nhà này được dùng làm Musée Khải Định.
Điện Long An là một công trình kiến trúc tuyệt mỹ bằng gỗ được xây dựng theo kiểu "trùng thiềm điệp ốc" với 128 cột. Trang trí nội ngoại thất cực kỳ phong phú, giàu tính nghệ thuật và rất thanh nhã.
Hiện vật trong Bảo tàng được sưu tầm và tàng trữ từ năm 1913 (khi Hội Đô Thành Hiếu Cổ được thành lập), đến trước năm 1945, số lượng hiện vật có khoảng 10.000 đơn vị, phần lớn là đồ ngự dụng, quan dụng, đồ dùng của triều đình, các tác phẩm mỹ thuật trong các Cung điện...bằng nhiều chất liệu, vàng, bạc, ngọc, đồng, ngà, thủy tinh, vải, giấy...
Ngoài ra, tại Bảo tàng còn một kho lưu giữ hàng ngàn hiện vật do triều đình sản xuất tại chỗ, hoặc đặt làm, đặt mua quà do các phái bộ ngoại giao biếu tặng. Một kho lưu hơn 80 hiện vật Chàm được sưu tập tại châu Ô, châu Lý xưa và trong cuộc khai quật khảo cổ tại Trà Kiệu (1927).
Cầu Trường Tiền còn được gọi là Cầu Tràng Tiền, là chiếc cầu dài 402,60 m, gồm 6 nhịp dầm thép hình vành lược, khẩu độ mỗi nhịp 67 m. Khổ cầu 6 m, được thiết kế theo kiến trúc Gothic, bắc qua sông Hương. Đầu cầu phía bắc thuộc phường Phú Hòa, đầu cầu phía nam thuộc phường Phú Hội; ở ngay giữa thành phố Huế thuộc Việt Nam.
Nguồn lợi thủy sản tự nhiên rất phong phú như động vật, thực vật, rong biển, cá biển và khoảng 300ha rừng mập mặn.
Trong Sự kiện Tết Mậu Thân, trụ 3 và nhịp 4 bị phá hủy, khi quân Mặt trận Giải phóng miền Nam cho giật sập để cắt đường phản công của quân đội Việt Nam Cộng hòa. Sau đó, một chiếc cầu phao được dựng tạm lên bên cạnh để nối đôi bờ; rồi cầu được tu sửa tạm thời.
Sau khi kết thúc chiến tranh Việt Nam cầu được đổi tên thành "Tràng Tiền" mãi tới năm 1991 cầu mới được khôi phục lại tên cũ là Trường Tiền, trùng tu lần nữa. Ở lần trùng tu này do Công ty Cầu 1 Thăng Long đảm nhiệm, kéo dài trong 5 năm (1991-1995), có nhiều thay đổi quan trọng, đó là việc dỡ bỏ các ban công ở hành lang hai bên tại vị trí các trụ cầu, lòng cầu (cả đường chính và phụ) bị hẹp lại do phải nẹp thêm hai ống lan can, màu sơn ghi xám thay cho màu nguyên bản từ xưa của cầu là màu nhũ bạc,...
Từ Festival Huế năm 2002, cầu Tràng Tiền được lắp đặt một hệ thống chiếu sáng đổi màu hiện đại...và đến năm 2004 cầu lại 1 lần nữa được đổi tên là Trường Tiền.
Sông Hương hay Hương Giang là con sông chảy qua thành phố Huế và các huyện, thị xã: Hương Trà, Hương Thủy, Phú Vang đều thuộc tỉnh Thừa Thiên - Huế, miền Trung Việt Nam.
Sông Hương có hai nguồn chính đều bắt nguồn từ dãy núi Trường Sơn.Dòng chính của Tả Trạch dài khoảng 67 km, bắt nguồn từ dãy Trường Sơn Đông, ven khu vực vườn quốc gia Bạch Mã chảy theo hướng tây bắc với 55 thác nước hùng vĩ, qua thị trấn Nam Đông rồi sau đó hợp lưu với dòng Hữu Trạch tại ngã ba Bằng Lãng (khoảng 3 km về phía bắc khu vực lăng Minh Mạng). Hữu Trạch dài khoảng 60 km là nhánh phụ, chảy theo hướng bắc, qua 14 thác và vượt qua phà Tuần để tới ngã ba Bằng Lãng, nơi hai dòng này gặp nhau và tạo nên sông Hương.
Từ Bằng Lãng đến cửa sông Thuận An, sông Hương dài 33 km và chảy rất chậm (bởi vì mực nước sông không cao hơn mấy so với mực nước biển). Khi chảy quanh dọc chân núi Ngọc Trản, sắc nước sông Hương xanh hơn đây là địa điểm Điện Hòn Chén. Tại đây có một vực rất sâu.
Sông Hương được cho là rất đẹp khi chiêm ngưỡng nó từ nguồn và khi nó chảy quanh các chân núi, xuyên qua các cánh rừng rậm của hệ thực vật nhiệt đới. Con sông chảy chậm qua các làng mạc như Kim Long, Nguyệt Biều, Vỹ Dạ, Đông Ba, Gia Hội, chợ Dinh, Nam Phổ, Bao Vinh. Ði chơi bằng thuyền để được ngắm cảnh Hương giang thơ mộng, nghe những điệu hò, dân ca xứ Huế lúc trời đêm thanh vắng là thú vui muôn thuở của bao lớp du khách...
Núi Ngự Bình gọi ngắn gọn là núi Ngự, trước có tên là Hòn Mô hay Núi Bằng (Bằng Sơn) là một hòn núi đất cao 103m ở bờ phải sông Hương (giữa Cồn Hến và Cồn Giã Viên), cách trung tâm thành phố Huế (thuộc tỉnh Thừa Thiên - Huế, Việt Nam) 4 km về phía Nam.
Núi Ngự có dạng hình thang, đỉnh bằng phẳng, hai bên có hai ngọn núi nhỏ chầu vào gọi là Tả Bật Sơn và Hữu Bật Sơn. Bởi núi có hình dạng như thế, nên khi chúa Nguyễn Phúc Trăn (1687-1691) dời thủ phủ Đàng Trong từ làng Kim Long (thuộc huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên) về làng Phú Xuân (chỗ của Kinh thành Huế ngày nay) vào năm 1687, đã dùng núi ấy làm án (chắn ngang) trước thủ phủ. Về sau, khi chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) xây dựng đô thành Phú Xuân (hoàn tất năm 1739), và vua Gia Long xây dựng Kinh thành Huế 1805 cũng đặt núi Bằng làm án.
Cùng với sông Hương, núi Ngự Bình hòa quyện vào nhau tạo nên vẻ sơn thủy hữu tình của Huế, và đã trở thành biểu tượng của thiên nhiên Huế từ rất lâu. Vì vậy, người ta quen gọi Huế là xứ sở của "sông Hương núi Ngự".
Tối ngày 29 - 9 - 2017, Tuyến phố đi bộ Huế thuộc phường Phú Hậu, Thành phố Huế chính thức mở cửa. Ngay từ 18:00 cùng ngày, các xe cộ đã được cấm đi vào khu phố, hàng trăm người dân và du khách đã tập trung về đây để đi dạo trên khu phố đi bộ mới
Theo đó, bắt đầu từ thứ Sáu đến Chủ nhật hàng tuần, tuyến đường Phạm Ngũ Lão, Chu Văn An, Võ Thị Sáu nơi thường được gọi là "phố Tây", sẽ cấm phương tiện giao thông từ 18:00 hôm trước đến 02:00 sáng ngày hôm sau để trở thành phố đi bộ. Trước đó, chính quyền địa phương đã sắp xếp lại các cơ sở kinh doanh, dịch vụ trên các tuyến đường nêu trên theo hướng phù hợp với phố đi bộ, đồng thời phát thẻ gửi xe miễn phí cho các hộ dân sinh sống xung quanh ba tuyến đường này.
Đồng thời các bạn có thể thưởng thức các hoạt động trên tuyến phố đi bộ như không gian ẩm thực trên vỉa hè, chương trình nghệ thuật đường phố, các bạn có thể tham quan và chụp ảnh miễn phí các không gian đẹp, trưng bày các sản phẩm thủ công mỹ nghệ...
Lăng Gia Long hay Thiên Thọ Lăng, là lăng mộ của Gia Long hoàng đế (1762 - 1820), vị vua sáng lập triều Nguyễn. Lăng Gia Long thực ra là một quần thể nhiều lăng tẩm trong hoàng quyến, nay thuộc địa phận xã Hương Thọ, thị xã Hương Trà.
Lăng bắt đầu được xây dựng từ năm 1814 và đến năm 1820 mới hoàn tất. Toàn bộ khu lăng này là một quần sơn với 42 đồi, núi lớn nhỏ, trong đó có Đại Thiên Thọ là ngọn núi lớn nhất được chọn làm tiền án của lăng và là tên gọi của cả quần sơn này. Từ bờ sông Hương đi vào lăng có con đường rộng hai bên trồng thông và sầu đông cao vút, xanh um, tạo ra một không khí trong mát, tĩnh mịch. Hai cột trụ biểu uy nghi nằm ở ngoài cùng báo hiệu khu vực lăng.
Lăng Minh Mạng còn gọi là Hiếu Lăng (do vua Thiệu Trị cho xây dựng), nằm trên núi Cẩm Khê, gần ngã ba Bằng Lãng là nơi hội lưu của hai dòng Hữu Trạch và Tả Trạch hợp thành sông Hương, cách cố đô Huế 12km. Lăng Minh Mạng được xây dựng từ năm 1840 đến năm 1843 thì hoàn thành, huy động tới mười nghìn thợ và lính.
Lăng Thiệu Trị có tên chữ là Xương Lăng là nơi chôn cất hoàng đế Thiệu Trị. Đây là một di tích trong Quần thể di tích cố đô Huế được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới ngày 11 - 12 - 1993.
Lăng Thiệu Trị nằm dựa lưng vào núi Thuận Đạo, ở địa phận làng Cư Chánh, xã Thủy Bằng, huyện Hương Thủy, cách Kinh thành Huế chừng 8km. So với lăng tẩm các vua tiền nhiệm và kế vị, lăng Thiệu Trị có những nét riêng. Đây là lăng duy nhất quay mặt về hướng Tây Bắc, một hướng ít được dùng trong kiến trúc cung điện và lăng tẩm thời Nguyễn.
Cách lăng 8 km về phía trước, ngọn núi Chằm sừng sững được chọn làm tiền án. Dòng sông Hương chảy qua trước mặt làm yếu tố minh đường. Ngay cách chọn "Tả thanh long" và "Hữu bạch hổ" cũng có những nét khác thường: đồi Vọng Cảnh ở bên này sông được chọn làm "rồng chầu", nhưng "hổ phục" lại là ngọn Ngọc Trản ở bên kia sông. Đằng sau, núi Kim Ngọc xa mờ trong mây được chọn làm hậu chẩm; đồng thời, những người kiến trúc lăng còn đắp thêm một mô đất cao lớn ở ngay sau lăng để làm hậu chẩm thứ hai. Một nét riêng khác là lăng không có La thành bao quanh.
Nếu ở lăng Gia Long, La thành bằng gạch được thay thế bởi vô số núi đồi bao quanh như một vành đai tự nhiên, hùng tráng bảo vệ giấc ngủ cho vị tiên đế triều Nguyễn thì ở lăng Thiệu Trị, những cánh đồng lúa, những vườn cây xanh rờn ở chung quanh được xem là La thành. Chính vòng La thành thiên nhiên đó tạo cho cảnh quan lăng Thiệu Trị sự thanh thoát và yên bình.
Lăng Tự Đức là một quần thể công trình kiến trúc, trong đó có nơi chôn cất Tự Đức, tọa lạc trong một thung lũng hẹp thuộc làng Dương Xuân Thượng, tổng Cư Chánh (cũ), nay là thôn Thượng Ba, phường Thủy Xuân, thành phố Huế. Lúc mới xây dựng, lăng có tên là Vạn Niên Cơ, sau cuộc Loạn Chày Vôi, Tự Đức bèn đổi tên thành Khiêm Cung. Sau khi Tự Đức băng hà, lăng được đổi tên thành Khiêm Lăng.
Lăng Tự Đức có kiến trúc cầu kỳ, phong cảnh sơn thủy hữu tình và là một trong những lăng tẩm đẹp nhất của hoàng gia nhà Nguyễn.
Lăng Ðồng Khánh hay Tư Lăng là một di tích trong quần thể di tích cố đô Huế đây là nơi an táng vua Đồng Khánh, lăng tọa lạc giữa một vùng quê thuộc làng Cư Sĩ, xã Dương Xuân ngày trước (nay là thôn Thượng Hai, phường Thủy Xuân, thành phố Huế).
Ðồng Khánh tên là Nguyễn Phúc Ưng Ðường, con trai cả của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai (1845 - 1876), người sinh thành 3 vị vua: Kiến Phúc (1883 - 1884), Hàm Nghi (1884 - 1885) và Ðồng Khánh (1886 - 1888). Công việc xây dựng lăng tẩm vua Đồng Khánh đã được bắt đầu từ năm cuối đời vua ( 1888 khu vực điên Truy Tư sau đổi tên thành điện Ngưng Hy), làm thêm từ năm đầu thời Thành Thái (1889 khu vực lăng mộ) rồi sửa chữa và mở rộng quy mô dưới thời Khải Định (các năm 1915,1917,1921,1923).
Về mô thức kiến trúc, lăng Đồng Khánh có khoảng 20 công trình kiến trúc lớn nhỏ với mật độ tương đối dày. Khu vực tẩm quay về hướng đông nam, ngay trước mắt có đào hồ bán nguyên để làm yếu tố "minh đường" và ngọn đồi Thiên An cách đó khoảng 3 km được dùng làm tiền án. Khu vực lăng mộ lại quay về hướng đông-đông nam, tiền án của nó là núi Thiên Thai... Nếu tượng các quan viên ở lăng Tự Đức được tạc bằng đá với cỡ người quá thấp, thì ngược lại, tượng các quan viên ở lăng Đồng Khánh chỉ được đắp bằng voi gạch với dáng cao ngưng gầy.
Lăng Ðồng Khánh được xây dựng trong buổi giao thời của lịch sử Việt Nam nên kiếm trúc lăng đan xem giữa kiến trúc cung đình, kiến trúc dân gian và kiến trúc mới du nhập. Trong một chừng mực nhất định, kiến trúc lăng đã thành công trong việc thể nghiệm cái mới, đưa yếu tố dân dã vào trong cung đình khiến lăng Ðồng Khánh hòa hợp với phong cảnh thôn dã trong vùng.
Lăng Dục Ðức tên chữ An Lăng là một di tích trong quần thể di tích cố đô Huế, là nơi an táng vua Dục Ðức, vị vua thứ năm của triều đại nhà Nguyễn. Lăng tọa lạc tại thôn Tây Nhất, làng An Cựu, xưa thuộc huyện Hương Thủy, nay thuộc phường An Cựu, thành phố Huế, cách trung tâm thành phố chưa đầy 2 km.
Khái niệm khu lăng Dục Ðức thường dùng hiện nay là để chỉ toàn bộ quần thể kiến trúc nằm trong một khu vực rộng gần 6ha, bao gồm lăng vua Dục Ðức, hoàng hậu và 42 tẩm mộ ông hoàng bà chúa cùng 121 ngôi mộ đất của những người thuộc Ðệ Tứ Chánh phái Nguyễn Phước tộc (hệ phái của vua Dục Ðức).
Là nơi an táng của 3 vua nhà Nguyễn: Dục Ðức, Thành Thái và Duy Tân. Dục Đức lên ngôi năm 1883 được 3 ngày thì bị phế truất và mất, sau này con ông là vua Thành Thái (lên ngôi năm 1889) cho xây lăng để thờ cha đặt tên là An Lăng. Năm 1954, khi vua Thành Thái mất, thi hài được đưa về chôn tại địa điểm hiện nay trong khu vực An Lăng và được thờ ở ngôi điện Long Ân. Năm 1987, hài cốt vua Duy Tân được đưa về an táng cạnh lăng Thành Thái.
An Lăng nằm ở khu vực trung tâm, diện tích khoảng 1ha. Lăng gồm 2 khu vực: khu lăng mộ và khu tẩm thờ đặt song song với nhau. Cả hai khu đều có tường thành bao bọc. Lăng quay mặt về phía tây bắc, lấy đồi Phước Quả làm tiền án, núi Tam Thai sau lưng làm hậu chẩm và dòng khe chảy vòng qua trước mặt làm minh đường tụ thủy.
Lăng Khải Định, còn gọi là Ứng Lăng, là lăng mộ của vua Khải Định (1885 - 1925), vị vua thứ 12 của triều Nguyễn, toạ lạc trên triền núi Châu Chữ (còn gọi là Châu Ê) bên ngoài kinh thành Huế, nay thuộc xã Thủy Bằng, thị xã Hương Thủy.
Về kiến trúc lăng Khải Định được người đời sau thường đặt ra ngoài dòng kiến trúc truyền thống thời Nguyễn bởi cái mới, cái lạ, cái độc đáo, cái ngông nghênh, lạc lõng...bởi sự pha trộn kiến trúc Đông Tây Kim Cổ lạ thường, với các tác phẩm nghệ thuật ghép tranh sành sứ độc đáo.
Huế không chỉ nổi tiếng với cảnh sắc thiên nhiên mơ mộng hữu tình mà còn đặc biệt hấp dẫn với chiều sâu của vẻ đẹp văn hóa tinh thần kết đọng nhuần nhị nơi mỗi nét kiến trúc. Cùng với các lăng tẩm trầm mặc. Hoàng thành cổ kính, những ngôi nhà vườn êm ả thanh bình ở đây làm nên thành phố nhà vườn Huế.
Nhà vườn Huế được xây theo luật "dịch lý" và "phong thủy", nhà vườn Huế là tập hợp của một hệ thống kiến trúc sắp xếp theo chiều Bắc - Nam. Tuy rộng hẹp khác nhau, nhưng nhà nào cũng có kiến trúc tổng thể giống nhau, bao gồm: cổng, ngõ, bình phong, hòn non bộ, bể cạn, sân, nhà. Cổng thường xuyên xây bằng gạch, lối vào ngõ thường được trồng những hàng râm bụt hoặc chè tàu cắt xén cẩn thận. Bình phong cũng thường xây bằng gạch. Sau bình phong là bể cạn có hòn non bộ, một mảnh sân rộng rồi mới đến nhà. Xung quanh nhà trồng rất nhiều cây, hoa quanh năm tươi tốt.
Trong khu nhà vườn ấy, không thể không nói tới ngôi nhà rường cổ. Nhà rường thường được làm bằng gỗ, chúng được cầu hỳ hóa bằng nhiều nét văn hoa chạm trổ, trong liên kết của kết cấu nhà, thay cho đóng đinh là kỹ thuật mộng tinh xảo. Nhà rường có nhiều dạng: một gian hai chái, ba gian hai chái, năm gian hai chái, nhà rường lầu...rường là cách nói ngắn gọn của rường cột, nhà có hệ thống cột kèo gỗ được dựng lên theo những quy cách nhất định. Dù lớn đến đâu, nhà rường cũng được kết cấu hoàn toàn bằng chốt, mộng gỗ để có thể lắp ráp và tháo dỡ dễ dàng. Trong nhà bày sập gụ, tủ chè, treo hoành phi, câu đối, đồ đạc được bài trí hài hòa hợp lý, tạo cho nhà rường cái thần thái riêng biệt.
Nhìn cảnh quan một nhà vườn Huế, người ta dễ dàng nhận ra được tâm hồn và phong cách sống của chủ nhân. Nhà vườn Huế thể hiện sự hòa hợp giữa đời sống con người và cây cỏ, giữa nếp sống tinh thần và vật chất, tất cả đều bổ sung cho nhau, để tạo nên sự cân bằng trong cuộc sống.
Một số nhà vườn hiện nay còn nguyên vẹn, tiêu biểu như: nhà vườn An Hiên, nhà vườn công chúa Ngọc Sơn, Lạc Tịnh, nhà vườn Ý Thảo...
Nhà thờ chính tòa Phủ Cam, tên chính thức là Nhà Thờ Chính Tòa Trái Tim Cực Sạch Đức Mẹ. Nhà thờ này là nhà thờ chính tòa của Tổng Giáo phận Huế và là nhà thờ mẹ của các nhà thờ trong giáo tỉnh Huế, tọa lạc trên đồi Phước Quả, thuộc địa phận phường Phước Vĩnh, thành phố Huế. Đây là một trong những nhà thờ to lớn, nổi tiếng và lâu đời nhất tại Huế. Ngôi nhà thờ ngày nay được xây theo lối kiến trúc hiện đại, do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ thiết kế.
Mặt bằng xây dựng nhà thờ mang dạng thánh giá, đầu hướng về phía Nam đuôi hướng Bắc. Nhà thờ có kết cấu theo kỹ thuật xây dựng hiện đại nhưng phần trang trí vẫn theo nghệ thuật cổ điển của phương Tây. Các trụ đỡ được đúc sát vào tường, chạy uốn cong dần về phía trước, mềm mại. Bốn góc mỗi góc có ba trụ đỡ vươn dần ra, tạo thành một không gian đủ rộng ôm kín Cung thánh và bàn thờ.
Lòng nhà thờ rộng, có thể chứa được 2500 người đến dự lễ. Có hai dãy cửa gương màu nằm ở phần trên bên trong lòng nhà thờ cung cấp ánh sáng cho nội thất. Cung thánh là một hình tròn có các cấp đi lên, trên cung là một hình tròn nhưng nhỏ hơn với bàn thờ bằng đá cẩm thạch nguyên khối.
Nhìn tổng thể, nhà thờ Phủ Cam với đỉnh nhà thờ vươn thẳng lên trời trông vẫn thanh thoát nhẹ nhàng, mang tính nghệ thuật và tôn giáo.
Hồ Tịnh Tâm là một di tích cảnh quan được kiến tạo dưới triều Nguyễn. Dưới thời vua Thiệu Trị đây được xem là một trong 20 cảnh đẹp đất Thần Kinh.
Trước đây, hồ nguyên là vết tích của đoạn sông Kim Long chảy qua Huế. Đầu thời Gia Long, triều đình cho cải tạo một số đoạn sông và khơi dòng theo hướng khác để tạo thành Ngự Hà và hồ Ký Tế. Hai bãi nổi trong hồ này được dùng làm nơi xây dựng kho chứa thuốc súng và diêm tiêu. Năm Minh Mạng thứ 3 (1822), triều Nguyễn đã huy động tới 8000 binh lính tham gia vào việc cải tạo hồ. Năm 1838, vua Minh Mạng cho di dời hai kho sang phía đông, tái thiết nơi này thành chốn tiêu dao, giải trí và gọi là hồ Tịnh Tâm.
Hồ Tịnh Tâm có bình diện hình chữ nhật, chu vi gần 1500m, trên hồ có ba hòn đảo Bồng Lai, Phương Trượng và Doanh Châu. Hồ Tịnh Tâm được ngăn cách với bên ngoài bằng một vòng tường gạch. Bốn mặt có bốn cửa gồm cửa Hạ Huân ở phía nam, cửa Đông Hy ở phía bắc, cửa Xuân Quang ở phía đông và cửa Thu Nguyệt ở phía tây. Xung quanh các đảo trên hồ và dọc bờ hồ đều trồng các loại liễu trúc và các thứ hoa cỏ lạ, dưới hồ trồng sen trắng.
Đảo Bồng Lai ở phía nam hồ, chính giữa có điện Bồng Doanh. Điện có kiến trúc 3 gian 2 chái, mái trùng diêm, lợp ngói Hoàng lưu li, điện xây mặt về hướng nam, có lan can gạch bao quanh, phía trước có cửa Bồng Doanh, cầu Bồng Doanh nối đảo với bờ hồ phía nam. Phía đông điện Bồng Doanh có nhà Thủy tạ Thanh Tâm, quay mặt về hướng đông. Phía tây điện có lầu Trừng Luyện, quay mặt về hướng tây. Phía bắc là cửa và một cây cầu mang tên Hồng Cừ.
Đảo Phương Trượng giữa có gác Nam Huân, quay mặt về hướng nam, 2 tầng, mái lợp ngói hoàng lưu li. Phía nam có cửa Bích tảo và cầu Bích tảo. Phía bắc đảo có lầu Tịnh tâm, xây mặt hướng bắc. Phía đông có nhà Hạo Nhiên (năm 1848 đổi thành Thiên Nhiên), quay mặt về hướng đông. Phía tây có hiên Dưỡng Tính quay mặt về hướng tây. Giữa hai đảo có đình Tứ Đạt nằm giữa một hệ thống hành lang mái lợp ngói gồm 44 gian, chạy nối vào cầu Bích Tảo ở phía nam và cầu Hồng Cừ ở phía bắc.
Đảo Doanh Châu giữa hồ Tịnh tâm có đê Kim Oanh nối liền từ bờ đông qua bờ tây. Phía đông đê có cầu Lục Liễu, 3 gian, mái lợp ngói. Phía nam, đê gắn với một hành lang dài 56 gian, ở giữa là cầu Bạch Tần. Phía nam cầu có nhà tạ Thanh Tước để thuyền vua ngự. ở đoạn cuối phía tây của hành lang lại có nhà Khúc Tạ, thông với một nhà tạ khác, là Khúc Tạ Hà Phong qua một hành lang nhỏ dựng trên mặt nước. Phía nam nhà tạ này là đảo Doanh Châu.
Với kiểu kiến trúc cầu kỳ, tinh mỹ, hài hòa với tự nhiên, hồ Tịnh Tâm được xem là một thành tựu tiêu biểu của nghệ thuật kiến trúc cảnh quan Việt Nam thế kỷ 19.
An Cựu là tên một con sông nhỏ, chi lưu của sông Hương, ở phía Nam kinh thành Huế. Sông có nhiều tên gọi như Lợi Nông, Phủ Cam, Đại Giang, Hà Tự, Cống Quan, tên phổ biến ở Huế là sông An Cựu. Toàn bộ dòng sông dài khoảng 30km, bắt đầu lấy nước sông Hương từ đoạn cuối cồn Dã Viên, chảy qua địa phận Thành phố Huế, huyện Hương Thủy rồi đổ vào phá Hà Trung. Từ khi các chúa Nguyễn chọn Kim Long, rồi Phú Xuân là thủ phủ của Đàng Trong, 2 bên bờ sông An Cựu đã là nơi tập trung dinh thự, nhà vườn của các quan lại, quý tộc.
Tuy nhiên lúc này sông còn nhỏ, nhiều đoạn cạn hẹp. Năm Gia Long 13 (1814), sau khi khảo sát tình hình và hỏi ý kiến các vị bô lão ở xã Thanh Thủy, nhà vua đã cho khơi đào thêm sông An Cựu và cho đắp đập Thần Phủ ở phía dưới để lấy nước tưới tiêu, rửa mặn cho hành vạn mẫu ruộng ở khu vực này. Năm Minh Mạng thứ 2 (1821), sông An Cựu được đổi tên thành sông Lợi Nông. Bia đá khắc tên này vẫn còn. Năm Minh Mạng thứ 16 (1835) khi đúc Cửu Đỉnh, hình ảnh và tên sông đã được khắc vào Chương Đỉnh.
Chùa Thiên Mụ hay còn gọi là chùa Linh Mụ là một ngôi chùa cổ nằm trên đồi Hà Khê, tả ngạn sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 5 km về phía tây. Chùa Thiên Mụ chính thức khởi lập năm Tân Sửu (1601), đời chúa Tiên Nguyễn Hoàng vị chúa Nguyễn đầu tiên ở Đàng Trong.
Trước thời điểm khởi lập chùa, trên đồi Hà Khê có ngôi chùa cũng mang tên Thiên Mỗ hoặc Thiên Mẫu, là một ngôi chùa của người Chăm.
Truyền thuyết kể rằng, khi chúa Nguyễn Hoàng vào làm Trấn thủ xứ Thuận Hóa kiêm trấn thủ Quảng Nam, ông đã đích thân đi xem xét địa thế ở đây nhằm chuẩn bị cho mưu đồ mở mang cơ nghiệp, xây dựng giang sơn cho dòng họ Nguyễn sau này. Trong một lần rong ruổi vó ngựa dọc bờ sông Hương ngược lên đầu nguồn, ông bắt gặp một ngọn đồi nhỏ nhô lên bên dòng nước trong xanh uốn khúc, thế đất như hình một con rồng đang quay đầu nhìn lại, ngọn đồi này có tên là đồi Hà Khê.
Người dân địa phương cho biết, nơi đây ban đêm thường có một bà lão mặc áo đỏ quần lục xuất hiện trên đồi, nói với mọi người "Rồi đây sẽ có một vị chân chúa đến lập chùa để tụ linh khí, làm bền long mạch, cho nước Nam hùng mạnh". Vì thế, nơi đây còn được gọi là Thiên Mụ Sơn.
Tư tưởng lớn của chúa Nguyễn Hoàng dường như cùng bắt nhịp được với ý nguyện của dân chúng. Nguyễn Hoàng cả mừng, vào năm 1601 đã cho dựng một ngôi chùa trên đồi, ngoảnh mặt ra sông Hương, đặt tên là Thiên Mụ.
Huyền Không Sơn Thượng tọa lạc tại thôn Chầm, phường Hương Hồ, Thị xã Hương Trà là một ngôi chùa nổi tiếng, một thắng cảnh của cố đô Huế. Chùa thuộc hệ phái Phật giáo Nam tông, được Thượng tọa Giới Đức khai sơn năm 1989. Chùa nằm giữa khu rừng thông quanh năm xanh tươi, mát mẻ, chim hót líu lo.
Huyền không Sơn Thượng nằm ở lưng chừng núi với vẻ đẹp kỳ lạ, huyền ảo. Chùa không có cổng Tam quan to lớn mà cổng chùa chỉ bình thường như cổng của một ngôi nhà sân vườn Huế. Khuôn viên chùa là một khu vườn xanh ngắt với những dòng suối nhỏ nở đầy bông súng tím, những giò hoa phong lan quý, những cây sứ, thiên tuế, tùng, bách … cổ thụ hàng trăm năm tuổi, không gian yên ả thanh bình. Khu vực chùa có Chánh điện, Am mây tía, Nghinh lương đình, Nhà khách, Chúng hòa đường (nhà sinh hoạt), Quá thiện đường (nhà ăn), Tăng xá, Cốc liêu chư Tăng-Ni, cây cảnh...
Chánh điện chùa là biến thể của một ngôi nhà rường Huế với phong cách kiến trúc và chất liệu truyền thống để giữ dáng dấp hồn Huế, hồn Việt, lấy sự hài hòa với thiên nhiên, với hồn thơ làm ý tưởng chủ đạo; nhẹ vai trò tín ngưỡng, trọng tâm là hướng sống thiền, sống đạo.
Am mây tía là nơi ở, thư phòng, nơi tiếp khách và viết thư pháp của sư trụ trì. Đây cũng là nơi những người yêu thích văn chương thi phú, nghệ thuật thư pháp tìm đến để đàm đạo, bình thơ, luyện bút, khoe chữ...
Yên Hà các là nơi đón khách, có đường nét kiến trúc uyển chuyển, mái ngói, cột trụ, nội thất màu cánh gián, giản dị, đầm ấm.
Nghinh lương đình, nơi khách thập phương dừng chân nghỉ ngơi, thưởng trà, đàm đạo...
Chùa Từ Đàm là một ngôi chùa cổ danh tiếng ở Huế. Hiện tọa lạc tại số 1 đường Sư Liễu Quán, thuộc phường Trường An, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên - Huế, Việt Nam.
Chùa do Thiền sư Minh Hoằng - Tử Dung khai sơn vào khoảng cuối thế kỉ XVII, và sau đó được đặt tên là chùa Ấn Tôn, với ý nghĩa là "lấy sự truyền tâm làm tông chỉ". Năm 1841, vua Thiệu Trị đổi tên chùa Ấn Tôn thành Từ Đàm (do kỵ húy tên vua là Miên Tông), với ý nghĩa là "đám mây lành của Phật pháp".
Chùa Từ Hiếu hay Tổ đình Từ Hiếu là tên một ngôi chùa ở thôn Dương Xuân Thượng III, phường Thủy Xuân, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên-Huế. Chùa là một trong những ngôi cổ tự lớn và là một danh lam có tính văn hoá và lịch sử của cố đô Huế.
Chùa Từ Hiếu nằm khuất trong một rừng thông trên một vùng đồi (núi) của phường Thủy Xuân. Khuôn viên chùa rộng chừng 8 mẫu, phía trước có khe nước uốn quanh, phong cảnh thơ mộng.
Trước cổng chùa có ngôi tháp cao 3 tầng được xây dựng vào năm 1896 dùng làm nơi tàng trữ kinh tượng theo sắc chỉ của nhà vua. Cổng chùa được xây theo kiểu vòm cuốn, hai tầng có mái che và ngay trước con đường lát gạch để vào chánh điện là một hồ bán nguyệt trồng sen và nuôi cá cảnh...Cấu trúc chùa theo kiểu ba căn hai chái, trước là chính điện thờ Phật, sau là Quảng Hiếu Đường. Ở khu nhà hậu có án thờ Tả quân đô thống Lê Văn Duyệt cùng con ngựa gỗ và thanh đại đao của ông.
Hai bên sân chùa có hai lầu bia để ghi lịch sử xây dựng chùa. Chùa được xây theo kiểu: chính điện ba căn, hai chái, phía trước thờ Phật, phía sau thờ Tổ. Nhà hậu là Quảng Hiếu đường, ở giữa thờ đức thánh quan, bên trái thờ hương linh phật tử tại gia, bên phải thờ các vị Thái giám..., bên tả sân hậu là Tả Lạc Thiên (nhà tăng) và bên hữu là Hữu Ái Nhật (nhà khách).
Xung quanh ngôi chùa Từ Hiếu còn có khá nhiều lăng mộ các vị phi tần của các chúa Nguyễn. Do địa thế đẹp, yên tĩnh lại không xa thành phố Huế nên nơi đây là nơi điểm vui chơi dã ngoại của thanh niên Huế vào những ngày nghỉ, ngày lễ. Chùa Từ Hiếu là một trong những ngôi chùa cổ đón khách du lịch trong và ngoài nước đông nhất cố đô Huế.
Chùa Báo Quốc tọa lạc trên đồi Hàm Long trên đất xưa gọi là làng Thụy Lôi, gần với xóm Lịch Đợi. Từ đây nhìn xuống hướng đông là đường Điện Biên Phủ (con đường dẫn lên đàn Nam Giao) và nhìn về hướng bắc là ga xe lửa. Chùa do Hoà Thượng Giác Phong, người Quảng Đông, Trung Quốc, khai sơn vào cuối thế kỷ 17 dưới đời vua Lê Dụ Tông và đặt tên là Hàm Long Tự. Sau đó Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát ban sắc tứ Báo Quốc Tự vào năm 1747. Hiện vẫn còn tấm biển vàng thếp vàng và những bức liễu từ thời ấy. Thời Tây Sơn chùa bị sử dụng làm công xưởng.
Chùa Thiền Lâm hay còn có tên gọi khác là Chùa Phật đứng - Phật nằm. Chùa tọa lạc trên ngọn đồi Quảng Tế, xã Thủy Xuân, tại thành phố Huế. Đây là một ngôi chùa nổi tiếng với lối kiến trúc độc đáo thuộc hệ phái thevarada (Nam tông) tạo cho địa danh này trở thành một nét đẹp riêng tại cố đô. Chùa Thiền Lâm được Hòa thượng Hộ Nhẫn lập ra vào những năm 1960. Chùa có không gian yên tĩnh, bình an nên thu hút được nhiều khách du lịch đến đây để tham quan và thư giãn.
Chùa là quần thể bao gồm nhiều công trình khác như tháp Phật, tháp mộ, nhà tăng chúng, tượng,...Không giống với những ngôi chùa của Phật giáo Bắc Tông với cổng tam quan dẫn vào vườn thiền, nơi đây lại có cổng vào mang phong cách Phật giáo Nam Tông nhẹ nhàng, nhưng chất thiền vẫn hiện rõ nét trong không gian và cả trong những công trình kiến trúc tại chùa.
Chùa Diệu Đế toạ lạc bên bờ sông Hộ Thành, người Huế gọi là sông Gia Hội, hoặc sông Đông Ba, nay là số 100B đường Bạch Đằng, gần cầu Gia Hội. Chùa Diệu Đế có một vị trí quan trọng trong lịch sử Phật giáo ở Huế. Chùa nguyên là phủ của vua Thiệu Trị trước khi lên ngôi nên đã có cảnh quan rất đẹp, với vườn tược rộng rãi, cây cối xanh tươi. Năm 1844 nhà vua đã tôn tạo và sắc phong làm Quốc tự. Chùa trở thành một danh lam của đất kinh kỳ.
Tuy nhiên chùa cũng trải qua nhiều biến động lịch sử cho nên đã không còn như ngày xưa. Năm 1885 lúc vua Hàm Nghi đánh pháp và phải bỏ kinh thành xuất bôn ra Quảng Trị, cung điện bị Pháp chiếm đóng, chính phủ Nam Triều phải trú ngụ và làm việc ở đây. Nhà cửa bị trưng dụng cho nhiều mục đích: Trí Tuệ Tịnh Xá làm phủ đường Thừa Thiên, Tường Từ Thất làm thành ngân khố và sở đúc tiền, một tăng xá biến thành nhà lao, một tăng xá khác thành đài quan trọng. Năm 1887 hầu hết các công trình kiến trúc của chùa bị triệt hạ và sang thế kỷ 20 mới được phục hồi.
Vào những năm 1960, chùa Diệu Đế là nơi xuất phát của đám rước tượng Phật, với các xe hoa và hàng vạn Phật Tử của thành phố Huế lên chùa Từ Đàm vào dịp lễ Phật Đản hằng năm. Chùa cũng là nơi diễn ra những cuộc đấu tranh của Phật giáo chống chế độ độc tài Ngô Đình Diệm và các chính quyền của miền nam sau đó. Ngày nay nét huy hoàng cũ chỉ còn thấy ở chính điện, ở các bức phướn lớn rất đẹp rũ từ trên trần xuống, ở hoa văn trang trí trên trần và các bức họa về cuộc đời đức Phật.
Cầu ngói Thanh Toàn là chiếc cầu vòm bằng gỗ với mái ngói bắc qua một con mương làng Thanh Thủy Chánh, thuộc xã Thuỷ Thanh, thị xã Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên - Huế, cách thành phố Huế khoảng 8 km về phía Đông Nam. Đây là chiếc cầu gỗ được xếp vào loại hiếm và có giá trị nghệ thuật cao nhất trong các loại cầu cổ ở Việt Nam. Cầu được Bộ Văn hoá cấp bằng công nhận là Di tích văn hóa cấp quốc gia theo Quyết định số 575QÐ/VH ngày 14 - 7 - 1990.
Cầu ngói Thanh Toàn được xây dựng theo lối "thượng gia hạ kiều" (trên nhà, dưới cầu). Cầu dài 43 thước mộc (18,75m), rộng 14 thước mộc (5,82m), chia làm 7 gian, hai bên thân cầu có hai dãy bục gỗ và lan can để ngồi tựa lưng. Trên cầu có mái che, lợp ngói lưu ly. Cầu đầu tiên được xây dựng cách đây hơn hai thế kỷ đã bao lần bị gió bão, lụt lội và chiến tranh tàn phá. Tuy nhiên, sau các lần hư hỏng, nhân dân xã đều chung nhau tu sửa, tôn tạo và gìn giữ.
Thiên An là địa danh gồm nhiều ngọn đồi trồng thông phía Tây Nam thành phố Huế, gần lăng vua Khải Ðịnh.
Trên đỉnh đồi có Tu viện Thiên An, chung quanh khu vực đồi có hồ Thủy Tiên và khu lăng mộ cổ Ba Vành, còn in dấu vết một nghi án xưa. Khung cảnh bình yên, không gian trong lành, Thiên An và Thủy Tiên là nơi nghỉ dưỡng cuối tuần khá thú vị. Hiện nay khu vực này là trung tâm vui chơi giải trí của Thừa Thiên Huế.
Đồi Vọng Cảnh là một ngọn đồi cao 43m ở phía Tây Nam thành phố Huế, chân đồi tiếp giáp bờ sông Hương. Nó tọa lạc giữa vùng lăng tẩm của các vua chúa nhà Nguyễn và đối diện với điện Hòn Chén được thiết lập từ thời xa xưa ở phái đối ngạn. Ở quanh quất cách đồi Vọng Cảnh khoảng năm bảy trăm mét là lăng Đồng Khánh, lăng Tự Đức, lăng Thiệu Trị, lăng Hiếu Đông (vợ vua Minh Mạng), lăng Xương Thọ (của bà Từ Dũ, vợ vua Thiệu Trị), lăng bà Thánh Cung (vợ vua Đồng Khánh), lăng bà Từ Cung (vợ vua Khải Định), lăng Hoàng tử Cảnh (con vua Gia Long),...Cách đồi Vọng Cảnh khoảng 300m về phía hạ lưu là Nhà máy nước Vạn Niên.
Đứng trên đồi Vọng Cảnh, người ta có được một cái nhìn bao quát đối với nhiều di tích cổ kính và những cảnh đẹp tuyệt vời ở một không gian thiên nhiên rộng lớn chung quanh, đặc biệt nhất là vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của sông Hương. Ngọn đồi nằm giữa một khúc uốn mềm mại, dịu dàng và hấp dẫn nhất của dòng sông nổi tiếng đa tình và gợi cảm này. Đây là nơi sông núi xích lại gần nhau để tạo ra một không gian sơn kỳ thủy tú. Ý nghĩa của địa danh Vọng Cảnh là như vậy.
Điện Hòn Chén tọa lạc trên núi Ngọc Trản, thuộc làng Ngọc Hồ, phường Hương Hồ, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Núi Ngọc Trản xưa có tên là Hương Uyển Sơn, sau mới đổi tên là Ngọc Trản (có nghĩa là chén ngọc), dân gian vẫn quen gọi là Hòn Chén vì nó có liên quan đến giai thoại về vua Minh Mạng đánh rơi chén ngọc.
Khoảng 10 công trình kiến trúc xinh xắn của ngôi đền đều nằm ở lưng chừng sườn đông nam thoai thoải của ngọn núi, ẩn mình dưới bóng dâm của một khóm rừng cổ thụ tán lá xum xuê. Những hệ thống bậc cấp chạy từ đền cao xuống tận bến nước trong xanh. Mặt sông phẳng lặng như gương, được dùng cho toàn cảnh thiên nhiên và kiến trúc nghiêng mình soi bóng. Dù thuyền cập bến, đứng nhìn lên, khách dễ tưởng mình đang lạc vào chốn thần tiên.
Điện Hòn Chén là ngôi điện duy nhất có một vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh của người dân xứ Huế và đó cũng là ngôi điện duy nhất ở Huế có sự kết hợp giữa nghi thức cung đình và tín ngưỡng dân gian; giữa lễ hội và đồng bóng; giữa văn hóa tâm linh và mê tín dị đoan. Đây cũng là nơi trang trí mỹ thuật đạt đến đỉnh cao vào cuối thế kỷ 19. Điện còn là sự pha trộn của nhiều tín ngưỡng tôn giáo mang sắc thái đa dạng.
Điện Hòn Chén không chỉ là một di tích lịch sử và tôn giáo mà còn là một thắng cảnh, một điểm tham quan văn hóa độc đáo thu hút hàng ngàn khách tham quan, nhất là vào dịp lễ hội tháng 3 và tháng 7 Âm lịch hàng năm.
Bãi biển Thuận An là một bãi biển thuộc thị trấn Thuận An, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên - Huế, biển nằm ngay bên cạnh cửa biển Thuận An. Cùng với biển Lăng Cô, phá Tam Giang thì biển Thuận An cũng chính là một kiệt tác của thiên nhiên ở Huế thu hút du khách mọi miền. Đây chính là nơi sông Hương xuôi dòng hướng phá Tam Giang rồi đổ ra biển Đông, hòa cùng đại dương mênh mang. Do vậy mà bãi biển Thuận An mang một vẻ đẹp riêng giữa ánh sắc của dòng sông hiền hòa và biển cả rộng lớn.
Khách du lịch Huế đi từ trung tâm thành phố muốn chiêm ngưỡng bãi biển Thuận An chỉ phải mất chừng 20 phút đi taxi, nửa tiếng đi xe máy hoặc 45 phút dạo trên xe đạp.
Bãi biển Thuận An chưa được đưa vào khai thác du lịch nhiều nên vẫn giữ được vẻ đẹp nguyên sơ, đâu đó là nét đẹp bí ẩn hết sức đằm thắm như người xứ Huế, làm trái tim người về cứ thổn thức nhớ thương và tò mò muốn khám phá mãi. Với sức hút của mình, trong tương lai, bãi biển Thuận An hẳn sẽ là một trong những điểm đến làm nên nét du lịch Huế đáng để tự hào. Nếu đi buổi sáng thì ngắm bình minh ở biển Thuận An là một trong những trải nghiệm tuyệt vời của du khách về nơi đây.
Nếu đi buổi chiều, ngoài tắm biển, bạn có thể trải nghiệm các món hải sản ở đây, đặc biệt có đặc sản bánh ép Thuận An cực kỳ nổi tiếng.
Cảnh Dương là một trong những bãi biển đẹp ở Thừa Thiên Huế, cách thành phố Huế chừng 60 km về phía Nam. Bãi biển Cảnh Dương dài 8km, rộng 200m, hình vòng cung, nằm giữa mũi chân Mây Tây và chân Mây Ðông, bờ biển có độ dốc thoai thoải, cát trắng mịn, nước biển trong xanh và tương đối kín gió rất thuận lợi cho việc tổ chức các loại hình du lịch và thể thao.
Lăng Cô là một thị trấn thuộc huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên - Huế, Việt Nam. Địa danh "Lăng Cô" có người cho rằng là do người Pháp đọc trại tên "An Cư", vốn là làng chài ở phía nam đầm. Cũng có người cho rằng lúc trước ở Lăng Cô có nhiều đàn cò, nên được gọi là Làng Cò, sau đó được dân địa phương đọc trại lại là Lăng Cô.
Bãi biển Lăng Cô là một danh lam thắng cảnh thiên nhiên của tỉnh Thừa Thiên - Huế, cùng với cụm Hải Vân non nước được đưa vào danh sách các khu du lịch quốc gia Việt Nam. Bãi biển Lăng Cô từ lâu đã nổi tiếng là một bãi biển có các điều kiện tự nhiên và phong cảnh vào loại đẹp nhất ở Việt Nam với bãi cát trắng dài tới hơn 10 km, làn nước biển trong xanh bao la tuyệt đẹp, bên cạnh đó là những cánh rừng nhiệt đới rộng lớn trên những dãy núi nhấp nhô, nằm giữa núi rừng và biển là đầm Lập An rộng lớn (800ha) đầy huyền bí.
Lăng Cô là nơi tập trung nhiều tài nguyên du lịch phong phú như: bờ biển, bãi cát mịn, đầm hồ, sông suối, núi đồi, bên đèo Hải Vân, gần rừng nguyên sinh Bạch Mã và các di tích lịch sử...sẽ tạo ra các sản phẩm du lịch đa dạng nhất thỏa mãn các loại hình du lịch.
Đầm Lập An (hay còn gọi là đầm An Cư) nằm cạnh quốc lộ 1A, đoạn qua thị trấn Lăng Cô, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên – Huế 15km2 của khu đầm ở ngay dưới chân đèo Phú Gia được dải núi Bạch Mã hùng vĩ bao quanh, phía trước là vịnh Lăng Cô xanh ngọc bích.
Suối Mơ hay còn có tên gọi là Thác Mơ là con suối thuộc huyện Nam Đông của tỉnh Thừa Thiên Huế. Nơi đây nằm ở vị trí vô cùng lý tưởng nên nó luôn là địa điểm thích hợp để du khách cả hai tỉnh thành Huế và Đà Nẵng chọn lựa để tới khám phá.
Điều gây ấn tượng nhất của khu Suối Mơ Huế này chính là hình ảnh 3 con thác cao ngất ngưỡng. Nước từ trên đổ xuống trắng xóa một vùng trời. Tất cả tạo nên một bức tranh kỳ vĩ. Phía dưới là mặt hồ trong veo. Nước ở đây rất trong, trong đến mức bạn có thể nhìn rõ những hòn đá nằm ở tận phía dưới đáy hồ.
Hiện nay nên Suối Mơ Huế ngày càng được nhiều người biết tới. Không chỉ người bản địa mà khách du lịch trong và ngoài nước cũng rất yêu thích địa điểm du lịch dã ngoại đi phượt này.
Ngày xưa, Hải Vân Quan là một vị trí chiến lược xung yếu của Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế về quân sự cũng như giao thông bằng đường bộ, đó là cửa ngỏ phía nam của vùng đất này. Hải Vân Quan nằm ở đỉnh đèo vắt qua một rặng núi đâm ngang ra biển từ dãy Trường Sơn. Đỉnh đèo Hải Vân ở độ cao 496m so với mực nước biển cách Huế 77,3km về phía Nam và cách Đà Nẵng 28,7km về phía bắc.
Trong "Dư địa chí" đầu tiên của nước ta do Nguyễn Trãi biên soạn vào năm 1435, tác giả đã nói đến địa danh "Ai Vân", như là một yếu điểm trên con đường từ Thuận Hóa đi vào Quảng Nam.
Và hiện nay, cùng với Lăng Cô - Bạch Mã - Cảnh Dương, Hải Vân Quan là một điểm đang thu hút du khách trong và ngoài nước đến tham quan thưởng ngoạn cảnh đẹp hùng vĩ của núi rừng và biển.
Vườn quốc gia Bạch Mã là một vườn quốc gia thuộc tỉnh Thừa Thiên - Huế, cách thành phố Huế 40 km. Được thành lập theo quyết định số 214-CT ngày 15 tháng 7 năm 1991 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam.
Với diện tích 22.030ha, chủ yếu nằm trên 2 huyện Phú Lộc và Nam Đông thuộc tỉnh Thừa Thiên - Huế. Núi Bạch Mã với độ cao 1.450m so với mực nước biển là đỉnh núi cao nhất của vườn quốc gia Bạch Mã.
Vườn có tính đa dạng sinh học cao. Thực vật ở đây gồm 2.147 loài, trong đó có một số loài hiếm và có giá trị như hoàng đàn giả, trầm hương. Động vật đã ghi nhận được 1.493 loài, đặc biệt có một số loài thú mới được phát hiện ở Việt Nam như sao la.
Về côn trùng, vườn quốc gia Bạch Mã đã xác định được 894 loài của 580 chi và nằm trong 125 họ và 17 bộ, gồm bộ Cánh vảy với 310 loài, 190 chi, 22 họ; bộ Cánh cứng với 200 loài, 145 giống, 17 họ. Bộ Cánh nửa có 60 loài, 47 chi và 12 họ. Chiếm số lượng thấp nhất là bộ Cánh da với 3 loài, 3 chi và 3 họ.
Từ thành phố Huế đi gần 30 km về phía nam theo quốc lộ 1A, rồi theo con đường làng râm mát cây xanh đi thêm 10km nữa, du khách sẽ đến hồ Truồi (xã Lộc Hòa, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên - Huế).
Hồ Truồi có diện tích khoảng 400 ha, dung tích lòng hồ đến 60 triệu mét khối nước, là công trình thủy lợi lớn nhất ở Huế. Đập Truồi ngăn nước cao 50 mét được tỉnh Thừa Thiên - Huế xây dựng vào năm 1996. Có bốn con suối đổ vào hồ Truồi, là suối Hợp Hai, Vũng Thông, Ông Viên và Ba Trại.
Vào suối, bạn có thể tham gia vào việc câu cá, thả lưới hết sức hấp dẫn và thú vị. Ngoài ra, bạn sẽ được chìm trong không gian yên tĩnh và thanh bình, cảm nhận được nét hoang dã của núi rừng và thiên nhiên.
Đây là loại hình du lịch hết sức thú vị và bổ ích cho các bạn trẻ. Nếu có dịp, hãy cùng bạn bè hay gia đình của mình trải nghiệm những cảm giác thích thú mà không tốn quá nhiều tiền bạc và thời gian.
Thuộc Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã là ngôi thiền viện đầu tiên tại miền Trung, tọa lạc tại núi Bạch Mã, khu vực hồ Truồi, xã Lộc Hòa, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ở độ cao 1450m, cách biển Đông 5km đường chim bay, nhiệt độ thường từ 19 - 21oC, Bạch Mã được xem là một trong những vùng khí hậu lý tưởng. Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã hiện lên giữa lòng Hồ Truồi như một đóa hoa, gối đầu vào núi rừng Bạch Mã trải dài hút mắt.
Từ thành phố Huế xuôi về Nam khoảng 30 km, đến địa phận xứ Truồi, đi vào Đập Truồi, vượt hết dốc thoải bên lưng đồi, một bức tranh thủy mặc sinh động hiện ra. Bên kia bờ nước, dưới chân ngọn linh sơn, những tổ đường, chính điện, tăng đường, trai đường, phương trượng, lầu chuông, tháp xá lợi soi bóng xuống gương nước hồ Truồi, xa xa là những vờn mây quyện quanh những đỉnh núi đã tạo nên một không gian hư ảo, thanh tịnh và yên bình.
Vượt qua lòng hồ Truồi mênh mang sóng nước, độ chừng mươi chục phút, bằng những con suồng nhỏ, sẽ đến thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã. Bước lên khỏi 172 bậc tam cấp là tam quan của Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã. Được xây dựng hài hoà trong một chỉnh thể của kiển trúc Phật giáo và Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử, Trúc Lâm Bạch Mã cũng có chính điện thờ Phật tổ đang ngồi tu niệm dưới gốc cây bồ đề, phía sau chính điện là khu vực tổ đường thờ tổ sư Đạt ma của thiền phái Trúc Lâm.
Thiền Viện Trúc Lâm Bạch Mã là một quần thể danh lam giữa vùng sơn thủy hữu tình đã trở thành địa chỉ tham quan cho du khách thập phương khi đến với vùng đất cô đô Huế.
Đá Dăm là một ngọn thác nhỏ ở Dương Hòa, thị xã Hương Thủy. Bạn có thể tổ chức cùng gia đình, bạn bè đến đây vui chơi, tắm mát vào những ngày nghỉ. Từ trung tâm TP Huế, có hai đường đến thác: một là men theo đường qua công trình hồ Tả Trạch hai là đi theo hướng cầu Tuần, qua bến đò Tân Ba.
Xuất phát theo hướng cầu Tuần, chúng ta sẽ dễ dàng mua được thức ăn tươi hoặc một số nông sản địa phương ở chợ quê. Gặp mùa thanh trà, đừng quên ghé vào một số vườn cây bên đường, vừa thưởng ngoạn phong cảnh, vừa mua đặc sản này mang theo giải khát.
Đường đến thác khá hoang sơ nên rất thích hợp với những người thích phiêu lưu bằng xe máy, đặc biệt là các bạn trẻ. Muốn chinh phục độ cao, đón dòng nước đầu nguồn, hãy chuẩn bị thật kỹ để không bị trượt chân khi men theo những vách đá dựng đứng bạn cũng có thể thỏa sức vui đùa ở hồ nước mát lạnh bên dưới thác. Ai lãng mạn thì đi hái hoa rừng, tìm sim chín...
Trên đường vào thác có một căn nhà nhỏ của Kiểm lâm Hương Thủy. Các anh nhân viên sẽ là những thổ địa cung cấp nhiều thông tin bổ ích về con người, sinh vật khu vực này. Nếu gặp khó khăn trong việc đi lại, tìm kiếm nước uống...đừng ngần ngại mở lời xin giúp đỡ.
Một người dân địa phương cho biết: "Thác Đá Dăm là điểm đến thú vị của nhiều học sinh, sinh viên Huế vào mùa hè. Phong cảnh còn nét nguyên sơ nên các bạn trẻ sẽ có những bức ảnh cực đẹp. Nếu trong đoàn có trẻ nhỏ, phải cẩn thận do hồ nước khá sâu và vách đá khá cheo leo".
Nước khoáng Thanh Tân Huế nằm sâu hàng nghìn mét dưới lòng đất, chứa Calcium Sunfat và Silicium...rất tốt cho cơ thể. Vì thế, đây là điểm đến thích hợp với nhiều du khách trong tiết trời se se lạnh, giao mùa.
Được phát hiện năm 1928 bởi các nhà khoa học Pháp, suối khoáng Thanh Tân nhanh chóng được nghiên cứu, ứng dụng làm nước giải khát phục hồi sức khỏe con người. Năm 1983, nguồn nước này được Bộ Y tế cho phép khai thác làm nước uống đóng chai. Tuy nhiên, đến cuối năm 2000, khu du lịch suối nước khoáng Thanh Tân mới trở nên thông dụng và được nhiều người biết tới.
Khu du lịch suối khoáng Thanh Tân xây dựng trên diện tích 50 ha. Bên cạnh những dãy núi cao ngất là những quả đồi được tạo hóa sắp xếp liền kề. Màu xanh của núi rừng, cây cỏ đã tạo cho khách cảm giác thư thái, dễ chịu ngay từ phút đầu tiên. Đặt chân tới chốn này, bạn có thể bách bộ, ngắm những giò phong lan rừng tuyệt đẹp hay thưởng thức những ly trà nóng được chiếc xuất từ loại hoa chỉ được trồng tại Thanh Tân. Du khách sẽ được thả mình trong dòng nước khoáng nóng trong lành, để tận hưởng cảm giác thư giãn, nghỉ ngơi sau những ngày làm việc căng thẳng.
Thiên nhiên ban tặng cho nơi đây món quà vô giá, đó là nguồn nước khoáng nằm sâu hàng nghìn mét dưới lòng đất và xuất lộ trên đỉnh đồi ở nhiệt độ hơn 60 độ C, hàm chứa Calcium Sunfat và Silicium..., tốt cho cơ thể. Trong tiết trời se se lạnh của mùa thu, nước khoáng nóng Thanh Tân chắc chắn trở thành điểm đến lý tưởng, nhất là với du khách miền Trung, vốn không quen với tiết trời lạnh.
Sát chân núi có dòng suối tự nhiên đẹp như tranh, có con đường uốn lượn. Ðây là vùng trồng cây ăn quả, cây lấy dầu. Khu trung tâm giữa rừng cây xanh là nơi ngâm tắm nước khoáng nóng. Bạn có thể chọn cho mình một trong những điểm ngâm tắm ngoài trời phù hợp, được vẫy vùng trong dòng suối ấm áp đang tỏa hơi mờ mịt hay trong suối nước khoáng tinh khiết lượn quanh đồi với nhiệt độ từ 35 - 42oC, trong hệ thống hồ đa dạng như hồ đôi, hồ gia đình, hồ bơi tạo sóng biển...
Khu du lịch nước khoáng Thanh Tân còn có một sân chơi rộng rãi để đốt lửa trại hoặc tổ chức văn nghệ vào những buổi dã ngoại ban đêm. Sau nhiều giờ ngâm tắm, bụng đói cồn cào, bạn sẽ ngon miệng hơn với đĩa cá rô nuôi bằng nước khoáng, chiên ròn thơm phức trong những lều tranh xinh xắn bên hồ sen ngát hương.
Cách trung tâm thành phố Huế khoảng 15 km, đầm Chuồn là một phần trong hệ thống đầm phá Tam Giang. Nơi đây mang dáng vẻ của một vùng đất mênh mông sông nước với hình ảnh con người chân chất, thật thà.
Ở mỗi thời điểm khác nhau trong ngày, đầm Chuồn lại khoác lên mình một dáng vẻ mới, quyễn rũ, bình dị và đẹp đến nao lòng. Do vậy, đến đây vào bất kỳ thời điểm nào trong ngày, bạn đều cảm nhận trọn vẹn vẻ đẹp của nơi này. Đặc biệt, cảnh vật trở nên huyền ảo hơn vào mỗi sáng sớm và hoàng hôn, đây cũng là thời điểm được các nhiếp ảnh đến để săn những bức ảnh đẹp.
Bạn có thể lựa chọn di chuyển trên những chiếc xuồng nhỏ để tham quan đầm Chuồn. Ngoài ra, bạn có thể tham gia các hoạt động như đánh bắt hải sản, câu cá...
Đầm Thủy Tú là một trong ba đầm phá hợp thành hệ đầm phá Tam Giang Cầu Hai, đó là phá Tam Giang, đầm Thủy Tú và đầm Cầu Hai. Theo địa chí Thừa Thiên Huế do Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội xuất bản năm 2005 thì Đầm Thủy Tú bao gồm: đầm An Truyền, Thanh Lam (Sam), Hà Trung và Thủy Tú. Đầm Thủy Tú kéo dài từ cầu Thuận An đến Cồn Trai trên chiều dài 33km. Chiều rộng đầm biến đổi từ 0,5km (đầm Thủy Tú) đến 5,5km (đầm An Truyền), trung bình 1,8km, chiều sâu đầm thay đổi từ 1 - 1,5m đến 3 - 5m tùy thuộc khu vực, nhưng phổ biến là 1,5 - 2m. Diện tích mặt nước của đầm tới 60km. Đây là một địa danh Lịch sử văn hóa và Du lịch của tỉnh Thừa Thiên Huế, có nhiều cảnh đẹp và các sản vật nổi tiếng.
Đầm Cầu Hai thuộc huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế, là khu đầm lớn nhất thuộc hệ thống phá Tam Giang. Nước trong đầm là nước ngọt, thường chuyển sang lợ vào mùa khô, đây là nơi hứng nước của các con sông lớn trong địa phương.
Đầm Cầu Hai với diện tích 11.200 ha. Cửa Tư Hiền thông đầm Cầu Hai với biển. Hệ đầm hứng nước gần như tất cả các con sông lớn trong tỉnh Thừa Thiên nên nước đầm tương đối ngọt rồi chuyển sang nước lợ vào mùa khô. Đầm Thủy Tú nối từ đầm Cầu Hai tạo nên thủy vực phía bắc, lượn qua phá Tam Giang. Từ đây, có thể theo dòng sông Hương đi ngược lên Huế.
Phá Tam Giang là một phá nằm trong hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai. Diện tích phá Tam Giang khoảng 52 km2, trải dài khoảng 24 km theo hướng tây tây bắc - đông đông nam từ cửa sông Ô Lâu đến cửa sông Hương, thuộc địa phận của bốn huyện, thị Phong Điền, Quảng Điền, Hương Trà và Phú Vang thuộc tỉnh Thừa Thiên - Huế. Phá Tam Giang là một phá lớn của Việt Nam, chiếm khoảng 11% diện tích đầm phá ven bờ của cả nước.
Độ sâu của phá này từ 2 – 4m, có nơi sâu tới 7m. Hàng năm khai thác trên vùng đầm phá hàng nghìn tấn hải sản, cá, tôm các loại. Hiện nay có kế hoạch nghiên cứu đầu tư xây dựng cầu qua Phá Tam Giang để có điều kiện phát triển kinh tế và du lịch tại vùng này.
Chợ nổi là một trong những đặc trưng của vùng đầm phá lớn nhất Đông Nam Á này. Các phiên chợ nổi thường bắt đầu từ 4:00 sáng và tan khi bình minh ló rạng (thường vào khoảng 6:00 - 07:00). Không đông đúc và đa dạng như các phiên chợ nổi ở miền Tây Nam Bộ, chợ nổi ở đây chủ yếu là mua các loại thủy sản của vùng đầm phá.
Lễ hội Điện Hòn Chén diễn ra một năm hai kỳ - tháng ba (lễ Xuân Tế) và tháng bảy (lễ Thu Tế).Lễ hội diễn ra ở Điện Hòn Chén trên núi Ngọc Trản và đình làng Hải Cát, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Lễ Hội suy tôn Thiên Y A Na Thánh Mẫu.
Hàng năm hai lần vào dịp xuân tế (mồng 2, mồng 3 tháng 3) và thu tế tháng 7, Điện Hòn Chén lại làng Hải Cát, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế lại tấp nập người trẩy hội Thiên Y A Na Thánh mẫu. Nghi lễ diễn ra rất long trọng. Dân làng tổ chức tế tại đình, trước ngày chánh tế có lễ nghinh thần để rước tất cả các vị thần trong làng về đình. Trong đó đám rước Thiên Y A Na Thánh Mẫu từ Huệ Nam đến đình làng Hải Cát tổ chức trọng thể hơn cả.
Thiên Y A Na Thánh Mẫu, nguyên xưa là nữ thần của người Chăm có tên là Pô Yang Inô Nagar, gọi tắt là Pô Nagar, tức Thần Mẹ Xứ Sở, mà theo truyền thuyết Chăm là Thần đã sáng tạo ra đất đai, cây cối, rừng gỗ quí, lúa, bắp,... và dạy dân cách trồng trọt.
Cứ 3 năm, ngư dân làng Thái Dương Hạ (xã Hải Dương, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế) lại tổ chức lễ hội cầu ngư với ước mong một năm ra khơi bội thu.
Lễ hội cầu ngư làng Thái Dương Hạ diễn ra trong hai ngày 10 - 11 tháng Giêng. Đây là lễ hội lớn của ngư dân địa phương, ba năm mới được tổ chức một lần vào dịp đầu xuân với ý nghĩa cầu cho một năm mới ra khơi đánh bắt được cá, tôm.
Làng Thái Dương Hạ thờ vị thành hoàng làng có tên là Trương Quý Công (tên huý là Trương Thiều). Đó là người có công khai khẩn và truyền nghề đánh bắt cho dân trên đầm, phá và ngoài biển khơi.
Trong lễ hội cầu ngư, phần lễ được ví như một cuộc tiếp xúc giữa người sống và người chết; phần hội có các diễn xướng gồm hát bội, làm trò bủa lưới và thi tranh tài đua thuyền, bơi trải...Sau khi vị trưởng làng thắp nén nhang lên bàn thờ thành hoàng, tiếng trống lệnh vang lên báo hiệu lễ hồi cầu ngư bắt đầu.
Hội vật Làng Sình được tổ chức vào ngày 10 tháng Giêng âm lịch hàng năm, Lễ hội đấu Vật làng Sình được tổ chức tại khu vực đình làng Lại Ân (còn gọi là làng Sình), xã Phú Mậu, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Đây là một hoạt động văn hoá truyền thống, giàu tinh thần thượng võ của người bản địa. Các đô vật sẽ thi đấu theo thể thức vòng tròn.
Hội vật Làng Sình ngoài yếu tố tâm linh như mong cho dân khoẻ, làng yên, mùa màng tươi tốt, hạnh phúc đến với muôn người còn là một hoạt động vui, khoẻ đầy tinh thần thượng võ, kích thích việc rèn luyện sức khoẻ, lòng dũng cảm, sự tự tin, mưu trí đối với lớp trẻ.
Hội chợ xuân Gia Lạc do Đinh viễn công Nguyễn Phước Bình sáng lập được tổ chức hàng năm tại thành phố Huế từ mồng 1 đến mồng 3 Tết.
Điều đáng lưu ý là quanh năm suốt tháng, chợ này không họp, mà mỗi năm chỉ họp đúng trong ba ngày Tết, sau đó thì giải tán, và chờ đến đầu Xuân năm sau mới xuất hiện trở lại.
Gia Lạc là một địa danh ở các trung tâm thành phố Huế 3km, nằm cách bờ sông Hương khoảng 300m. Bên cạnh chợ Gia Lạc là chợ Nam Phổ, và đối diện ở phía bên kia sông là chợ Dinh. Hai chợ này ngày nào cũng có họp và tên chợ đã đi vào ca dao cổ (Mua cau Nam Phổ, mua trầu chợ Dinh) của đất thần kinh.
Hội đua ghe truyền thống tỉnh Thừa Thiên Huế là một ngày lễ hội mới được tổ chức sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam 1975.
Hội được tổ chức trong một ngày, nhằm ngày lễ Quốc Khánh 02 - 09 (dương lịch). Địa điểm đua là bờ Sông Hương trước trường Quốc Học. Hội nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho thanh niên nam nữ có cơ hội thi tài trên sông nước, qua đó rèn luyện tăng cường bảo vệ sức khỏe và tạo không khí vui tươi lành mạnh cho nhân dân. Đây cũng là dịp để biểu lộ lòng vui mừng của nhân dân vào ngày Quốc Khánh. Quy mô hội có tính chất rộng rãi liên phường xã và các huyện trong tỉnh. Hội tổ chức theo định kỳ, mỗi năm một lần theo phong tục.
Cơm hến là một đặc sản ẩm thực Huế. Cơm hến được trình bày dưới hình thức là cơm nguội trộn với hến xào qua dầu và gia vị, nước hến, mắm ruốc, rau bắp cải, tóp mỡ, bánh tráng nướng, mì xào giòn, ớt màu, đậu phộng nguyên hạt, dầu ăn chín, tiêu, bột ngọt và muối. Các món cải biên như bún hến và mì hến không phải là đặc sản Huế.
Hến ngâm nước gạo một thời gian để thải hết bùn đất, rửa sạch, đem luộc cho đến khi hến mở vỏ. Lấy nước luộc sau khi đã để lắng, đổ hến ra sàng để lấy thịt hến. Thịt hến và nước hến là hai vị chính của cơm hến, ngoài ra thì cũng không thể thiếu các loại gia vị đi kèm. Các phần khác gồm có: cơm trắng để nguội, khế chua, rau thơm, dọc mùng, bắp chuối thái chỉ, nước mắm, hồ tiêu, hành phi, muối vừng, ớt tượng, tóp mỡ, da heo phơi khô chiên phồng, mắm ruốc sống, đậu phộng rang vàng nguyên hạt, ớt bột tao dầu.
Tất cả đều để nguội. Duy có nước hến phải được giữ cho nóng sôi. Bát cơm hến được trộn từ tất cả các thành phần trên rồi chan nước hến. Cơm hến thường được ăn với ớt thật cay mới đúng vị; còn đối với bún hến thì có lẽ sẽ ngon hơn nếu ăn khô (tức là không chan nước hến khi ăn).
Bún bò là một trong những đặc sản của xứ Huế, mặc dù món bún này phổ biến trên cả ba miền ở Việt Nam và cả người Việt tại hải ngoại. Tại Huế, món này được gọi đơn giản là "bún bò" hoặc gọi cụ thể hơn là "bún bò giò heo". Các địa phương khác gọi là bún bò Huế, "bún bò gốc Huế" để chỉ xuất xứ của món ăn này.
Món ăn có nguyên liệu chính là bún, thịt bắp bò, giò heo, cùng nước dùng có màu đỏ đặc trưng và vị sả và ruốc. Đôi khi tô bún còn được thêm vào thịt bò tái, chả cua, và các loại nguyên liệu khác tùy theo sở thích của người nấu.
Trong nước dùng của bún, người Huế thường nêm vào một ít mắm ruốc, góp phần làm nên hương vị rất riêng của nồi bún bò Huế. Sau khi xương bò được hầm chín tới, người ta thường thêm vào một ít chả heo hay chả cua được quết nhuyễn. Thịt bò có thể được xắt mỏng, nhúng vào nước dùng đang sôi trước khi cho vào tô bún (gọi là thịt bò tái). Người ta cũng thường cho thêm một ít ớt bột và gia vị vào tô bún rồi ăn với rau sống gồm giá, rau thơm, xà lách, rau cải con, bắp chuối xắt nhỏ.
Bún thịt nướng là một món ăn phổ biến và được yêu thích của cả Ba miền đất nước. Bún thịt nướng mỗi nơi đều giữ cho mình một hương vị đặc trưng riêng tùy theo khẩu vị từng miền Bắc, Trung, Nam. Món bún này có thể dùng làm điểm tâm, bữa chính hay giữa bữa đều phù hợp, rất ngon và hấp dẫn.
Yêu cầu của món Bún thịt nướng là thịt được nướng vàng đều, có vị đậm đà cùng hương thơm của sả và vừng; nước mắm chua ngọt vừa ăn; và các loại rau dùng kèm đa dạng.
Bún thịt nướng Huế ăn chung với dưa chuột chẻ, đồ chua, rau sống, lạc rang, hành phi… Tất cả được cho vào một cái tô và rưới nước lèo lên. Khi ăn bạn cảm nhận được rất nhiều hương vị cùng lúc như vị ngọt nhẹ nhàng, vị béo ngậy của đậu phộng, mè, vị chua thanh mát của rau củ, hay vị cay của ớt.
Người ta thường nói Nem lụi là một trong những món ăn đặc sản Huế. Ở đường Nguyễn Huệ có hai quán nem lụi. Suốt ngày đêm quán nào cũng chật ních người ăn. Khách hàng lần đầu ăn nem lụi, ai cũng xuýt xoa khen ngon để rồi ăn tiếp lần hai, lần ba, thậm chí ăn hàng ngày và lần nào cũng vẫn cứ khen ngon.
Khi ăn, lấy bánh đa nem gói thịt viên nướng cùng với rau, thơm, khế, giá, lát chuối xanh thái mỏng, miếng vả thái sống, ớt màu...lấy lá hành buộc lại rồi chấm với một thứ nước đặc biệt gọi là nước lèo. Nước lèo dùng cho nem lụi được pha chế từ hàng chục nguyên liệu khác nhau như dầu thực vật, gan lợn, bột đao, đường, tương nước mắm, quế chi, hoa hổi trộn với nước cốt dừa.
Bên cạnh ẩm thực cung đình, khám phá ẩm thực chay ở Huế xưa là trải nghiệm được yêu thích của nhiều du khách. Đặc biệt trong thời đại đầy những cao lương mỹ vị thì món chay sẽ cho bạn thấy sức hút và ưu điểm của nó: Ăn no nhưng không đầy bụng, lạ miệng, rẻ và giúp con người hướng thiện hơn.
Tại bờ nam sông Hương như Phạm Ngũ Lão, Đội Cung, Bà Triệu, Nguyễn Công Trứ, du khách cũng sẽ dễ dàng thấy các hàng ăn chay với những cái tên thanh nhã như: Bồ Đề, Tịnh Tâm, An Lạc, Tịnh Bình... để các bạn có thể trải nghiệm. Tất nhiên, cũng có những quán chay sang trọng giá đắt hơn vì sử dụng nguyên liệu và gia vị của Đài Loan, Hong Kong, Singapor để phục vụ du khách nước ngoài.
Bánh bèo là một món bánh rất thịnh hành ở miền Trung, ngoài ra cũng phổ biến ở miền Nam Việt Nam. Bánh bèo đã trở thành một nét đẹp trong văn hóa ẩm thực của người dân Viêt Nam từ bao đời nay.
Ở miền Trung, bánh bèo thường được phân ra làm hai loại là bánh bèo Quảng Nam và bánh bèo Huế. Bánh bèo Huế có khác chút ít, bánh mỏng hơn, có bột tôm sấy, khi ăn kèm theo da heo chiên giòn. Bánh bèo miền Trung đa phần đúc bằng chén (bánh bèo chén).
Bánh bột lọc là một loại bánh Việt Nam, có xuất xứ từ Huế, được từ bằng bột sắn được lọc tinh bột, sau đó được luộc một phần nhỏ bột, hoặc dùng nước sôi nhồi kỹ và làm bánh. Nhân bánh thường bằng tôm trộn với gia vị, có thể làm nhân bằng thịt heo nạc hay hỗn hợp tôm và thịt. Sau khi vắt thành bánh, bánh được gói bằng lá chuối (hoặc có thể không gói) và hấp cách thủy hay luộc chín rồi nhúng nhanh vào nước lạnh đều được. Thường kèm thêm nước chấm.
Đây là món ăn phổ biến ở Hà Nội, Nam Định, Nghệ An, Hà Tĩnh, các tỉnh từ Quảng Bình đến Quảng Ngãi và đặc biệt là Huế.
Bánh nậm là một loại bánh và là món ẩm thực truyền thống đặc trưng của xứ Huế, cùng với bánh bèo, bánh bột lọc. Đây là thứ bánh được làm từ bột gạo vừa ngon vừa có tính chất lành (người già, trẻ em, người ốm đều có thể ăn được). Ở Huế, bánh nậm còn được làm chay, chỉ có nhân đậu xanh, dùng cho ngày rằm, mồng một. Đặc biệt, còn có bánh nậm nhân thịt cóc, dành cho trẻ còi cọc, suy dinh dưỡng, cũng ngon và hấp dẫn không kém bánh nậm tôm.
Bánh nậm dùng với nước mắm ớt pha loãng, hơi ngọt. Lúc ăn, lột bánh ra, trải lên đĩa, nên để nguyên lá gói, mùi của lá sẽ giúp người ăn đỡ ngấy. Múc nước mắm mặn tưới đều lên bánh, lấy thìa tre lóc ra, gấp thành miếng vuông vức. Bỏ vào miệng, nhớ đừng nhai vội để thưởng thức cảm giác bột gạo tan đều ra, thấm sâu, béo ngậy, thơm.
Bánh ram ít ở Huế nhân tôm được cấu thành từ 2 phần riêng biệt ghép lại với nhau, bánh ít bên trên và đế ram phía dưới. Đây là món ăn có xuất xứ từ dân gian xưa rồi sau đó mới được truyền vào cung đình Huế. Khi ăn bánh ram ít, thực khách sẽ cảm nhận được cái dẻo dai của bánh ít bao bọc nhân tôm đậm đà cùng cái giòn rụm của ram, tất cả tạo nên một hương vị và cảm nhận vị giác hoàn toàn khác biệt.
Bánh khoái ở Huế đổ bằng bột gạo xay đánh sệt với nước và lòng đỏ trứng, sau đó thêm tiêu, hành, mắm, muối, tôm bóc vỏ, thịt bò nướng thái lát, mỡ thái lát nhỏ, giá sống. Khuôn bánh khoái làm bằng gang hình tròn, to bằng hai bàn tay trẻ con có cán cầm.
Khi nào có khách ăn, mới bắc khuôn lên lò để đổ bánh. Múc một muôi bột trứng đổ vào khuôn nóng đã tráng mỡ, bột chín vàng rơm thì gắp một miếng thịt bò nướng, lát mỡ nhỏ, một vài con tôm, ít giá bỏ vào một nửa phần bánh, dùng đũa lật phần bánh còn lại úp lên thành hình bán nguyệt lật bánh cho vàng đều hai bên, xong bày ra đĩa. Bánh ngon một phần nhờ nước lèo, được chế biến rất cầu kỳ với hàng chục nguyên liệu như bột báng, gan lợn, mè (vừng), lạc rang...
Bánh ướt làm bằng bột gạo có pha bột lọc, tráng mỏng hơn. Thịt để nướng thường là thịt heo ba chỉ thái mỏng, ướp tiêu, hành, nước mắm, ngũ vị hương, mè. Thịt ướp sau vài giờ thì đem kẹp, nướng trên bếp than đỏ hồng cho đến khi đủ độ chín, dậy mùi thơm. Lấy thịt nướng này kẹp với rau thơm, giá, xà lách làm nhân để cuốn bánh ướt.
Bánh ướt thịt nướng Kim Long ngon, hấp dẫn là nhờ chấm với loại nước chấm hết sức đặc biệt, được các chủ hàng chế biến từ nước mắm nguyên chất, đường, chanh, tỏi, ớt... như một bí quyết được lưu truyền qua nhiều thế hệ.
Bánh canh là một món ăn Việt Nam. Bánh canh bao gồm nước dùng được nấu từ tôm, cá và giò heo thêm gia vị tùy theo từng loại bánh canh. Sợi bánh canh có thể được làm từ bột gạo, bột mì, bột năng hoặc bột sắn hoặc bột gạo pha bột sắn. Bánh được làm từ bột được cán thành tấm và cắt ra thành sợi to và ngắn. Bánh được bỏ vào nồi nước dùng đã hầm vừa đủ độ và đợi cho chín tới. Gia vị cho bánh canh thay đổi tùy theo món bánh canh và tùy theo khẩu vị mỗi vùng. Bánh canh có thể dùng kèm với cá đã róc xương, chả cá, giò heo, tôm và thịt.
Ở Huế từ lâu lắm rồi, dưới làng Nam Phổ xã Phú Thượng, Phú Vang cách trung tâm thành phố Huế chừng 6km, đã có nghề bán cháo bánh canh truyền thống. Tuy cũng là cháo bánh canh, nhưng nó hoàn toàn khác với bánh canh đời mới. Vì thế, nếu không quen biết thì du khách dễ nhầm lẫn.
Bánh canh Nam Phổ bắt đầu bán từ buổi chiều khoảng 13:00 trở đi, hàng bánh canh do một phụ nữ gánh đi bán dạo (ngày trước người bán trẻ hay già đều đội nón Huế, mặc áo dài). Xuất phát từ Nam Phổ, lên Vỹ Dạ, qua chợ Ðông Ba, vào Thành Nội...Trong hàng bánh canh, còn bán cả bánh lọc, bánh ít, bánh nậm,...là những thứ bánh đặc sản Huế.
Bánh canh truyền thống Nam Phổ làm bằng bột gạo (xưa không có bột mì), lại chỉ dùng tôm giã nhuyễn trộn trứng. Tô bánh canh hình dẹt, nước dùng trong và sền sệt, thơm phức. Bánh canh xứ Huế được nhiều người ưa. Giá bình dân, hợp khẩu vị những ai thích ăn cay và nóng.
Đây là món ăn nổi tiếng ở Huế và có xuất xứ từ con phố Nhật Lệ trong thành Nội, nơi tập trung hàng chục lò làm bánh. Bánh thơm dẻo, ăn rất khoái khẩu do sự kết hợp nhuần nhuyễn mùi vị giữa nhân đậu, thịt (mỡ và nạc) với gạo nếp và các loại gia vị như tiêu, hành. Người ăn quen lâu ngày thành nghiện, thành thèm.
Ăn bánh chưng Nhật Lệ khi nguội ngon hơn khi nóng. Bóc lớp lá chuối ra, màu bánh xanh thơm nhức mắt. Cắn một miếng, nhân đậu thịt mỡ màu nâu trắng béo bùi ngập chân răng.
Bánh ngũ sắc thực chất là bánh in được gói bằng giấy bóng năm màu (vàng, cam, đỏ, hồng, xanh) nên còn được gọi là bánh in ngũ sắc. Đây là loại bánh thường để dâng cúng trên bàn thờ ông bà tổ tiên trong các lễ cúng bái, Tết.
Bánh ngũ sắc có nhiều chủng loại như bánh bột nếp, bột huỳnh tinh, bột đậu xanh, bột đậu quyên, bột đậu ván, bánh hạt sen trần,...Nhưng loại bánh xưa nhất và phổ biến nhất là bánh ngũ sắc đậu xanh có in hình chữ Thọ.
Bánh đậu xanh trái cây còn được gọi là bánh "quý tộc" không chỉ bởi sự cầu kì để làm ra bánh còn vì trước kia bánh chỉ được dùng tại các yến tiệc của Vua chú ở Hoàng Cung, hoặc trong mâm cỗ gia đình quan lại và quý tộc vào các dịp lễ thời xưa.
Nguyên liệu đơn giản, dễ kiếm bao gồm đậu xanh, rau câu, phẩm màu tự nhiên. Đậu xanh được vo, ngâm, tách vỏ lụa, đem hấp chín rồi xay nhuyễn. Hòa phần nhân đậu nhuyễn mịn cùng đường cát vào chảo sên đến khi khô đặc. Hỗn hợp đậu đường phải vừa đủ không quá nhão sẽ khó định hình, không quá cứng sẽ khiến bánh dễ bị nứt. Tiếp theo, đậu xanh sẽ được chia thành từng viên nhỏ, cắm vào que gỗ để nắn hình các loại quả như khế, ớt, xoài,...Sau khi bánh thành hình sẽ được mang đi sấy khô khoảng 5 - 6 tiếng rồi mới bước vào công đoạn quan trọng nhất lên màu cho bánh. Trước khi lên màu cho bánh, bánh được nhúng qua một lớp rau câu để tạo độ bóng bẩy bắt mắt. Để bánh mang hương vị trái cây thay vì dùng màu thực phẩm, màu bánh được tạo nên từ những màu có sẵn từ rau củ như: cam của cà rốt, vàng từ nghệ, hồng tím từ củ dền,...Nhờ những bàn tay tài hoa của người thợ làm bánh giúp bánh trở nên sống động, hấp dẫn, nhìn trông không khác gì loại trái cây thật.
Bánh đậu xanh trái cây đạt chuẩn phải có lớp ngoài bóng, màu sắc tươi sáng. Hương thơm đậu xanh lan tỏa, vỏ đông sương dẻo dai và vị ngọt bùi béo ngậy.
Khiến ai thưởng thức cũng phải xiêu lòng trước những chiếc bánh đậu xanh trái cây tí hon, xinh xắn.
Độc nhất vô nhị trong các món chè cung đình Huế phải kể đến chè bột lọc thịt heo quay. Chỉ mới thoáng nghe tên cũng đã gợi cho bất cứ ai cảm giác thích thú muốn thưởng thức ngay mùi vị của món ăn lạ lẫm này. Đó là món chè giòn dai pha lẫn vị ngọt thanh của đường phèn và béo ngậy của thịt quay, rất lạ miệng.
Ngoài món cơm hến nổi tiếng, cồn Hến còn có món chè bắp ngon mà ngoài Huế không nơi nào có được. Vùng này có bãi bồi vài chục ha. Người dân Cồn trồng bắp gần như quanh năm (trừ ba tháng lũ lụt). Bắp vùng này thơm ngon, béo ngậy vì hưởng được lớp phù sa dày trên mặt ruộng sau mỗi trận lụt.
Người ta nấu chè bắp bắt đầu từ việc chọn thứ bắp không non mà cũng không quá già. Sau khi lột vỏ bắp, dùng dao hai lưỡi thật sắc thái mỏng bắp và dùng cùi bắp luộc để lấy nước thơm ngọt đó để nấu chè (sau luộc lấy cùi bắp ra bỏ đi). Bắp thái mỏng cho vào nồi đun sôi, khuấy đều liên tục trong một giờ đồng hồ đến khi bắp chín cho đường kính vào khuấy đều (lượng đường cho vừa, không nhạt và cũng không ngọt quá). Thứ được cho thêm vào món chè bắp là cốt nước dừa trắng như sữa, thơm lừng.
Hạt sen nấu chè theo kiểu Huế được đem hấp chín, sau đó nấu chung với nước đường cát trắng hay đường phèn trong vắt cho đến khi sôi nhẹ. Vị ngọt của đường đủ thấm vào hột sen là bắc ra ngoài bếp. Để được nồi chè ngon, người nấu phải túc trực canh chừng để lửa cháy vừa phải, tay khuấy, trộn thật nhẹ nhàng, thời gian cũng chỉ vừa đủ để hạt sen "không già, không non". Nấu già, hột sen sẽ mất hương thơm tự nhiên. Nấu non, hương sen sẽ không tỏa ngát. Hương sen dịu mát tự nhiên là thứ đặc trưng của chè hạt sen xứ Huế mà không hương liệu nào thay thế được.
Món chè sen bọc nhãn lồng xứ Huế đã nổi danh khắp chốn xưa nay. Chè có vị thơm dịu mát của sen, vị ngọt thanh của cùi nhãn, ăn một lần không thể nào quên. Hột sen nấu chè theo kiểu Huế thường là hột sen tươi, vẫn còn nhựa và thơm mùi lá mới.
Hột sen màu trắng ngà, kết hợp với màu trắng trong của thịt nhãn (còn gọi là nhãn nhục) tạo ra một màu sắc rất dịu, hài hòa và thanh khiết. Hột sen chín bở được gói trong nhãn nhục mềm mại, giòn tan, hợp với sở thích và khẩu vị của nhiều lứa tuổi.
Món chè khoai tía được nhiều thực khách ưa thích vì màu sắc và hương vị. Chè được nấu từ khoai tía tím với nước cốt dừa và để nhỏ lửa đến khi vừa sánh là được, một số nơi biến tấu thêm các nguyên liệu như bột báng, trân châu, bột sắn… Ngày hè oi bức, ly chè khoai tía mộc mạc bình dị với sắc tím ngọt ngào sẽ giúp bạn thêm thanh mát.
Chè đậu ngự, đậu ván, đậu nguyên là những loại chè có xuất xứ lâu đời ở Huế. Chè được nấu mềm nhưng vẫn giữ được nguyên hạt đậu. Chè dẻo thêm đậu phụng rang giã nhỏ và nước dừa. Có thêm nước cốt dừa để tăng vị béo cho ly chè, thêm chút đậu phụng rang phảng phất hương vị thơm ngậy.
Chè táo xọn hay còn gọi là chè bông cau là một món chè ngon của Huế với cách làm đơn giản. Chỉ với các nguyên liệu chính là đường, đậu, cùng với chút cốt dừa là đã tạo được món chè ngon này rồi đó.
Lục tàu xá là món ăn vặt nổi tiếng của Huế trong những thập niên 50, 60 và đầu những năm 70 của thế kỷ trước. Trong ký ức những người Huế xưa còn lại vẫn không quên hương vị của món này nếu một lần đã thưởng thức.
Tàu xá là tên gọi theo tiếng Quảng Đông (Trung Quốc) vì đây là món ăn đã theo chân các Hoa kiều và người Minh Hương du nhập vào Việt Nam từ những thế kỷ trước. Nguyên gốc tên gọi đầy đủ của nó là lục tàu xá (lục đậu sa) nghĩa là "đậu xanh nát nhuyễn". Chính tên gọi cũng thể hiện một phần nguyên liệu chính làm nên món chè này, bao gồm đậu xanh, bột báng, trần bì (vỏ quýt khô) và đường cát.
Mắm sò Lăng Cô là một loại đặc sản mắm Huế mà khách du lịch nào tới đây cũng phải mua về làm quà. Mắm sò Lăng Cô Huế nổi tiếng bởi cách chế biến tỉ mỉ, công phu từ khâu nguyên liệu tới khâu chế biến.
Sò dùng làm mắm lăng cô là loại sò tươi, thịt chắc, được tẩm ướp với nhiều gia vị khác như: riềng, bột ớt, muối bột...Vì vậy, mắm sò Lăng Cô – Đặc sản mắm Huế có màu đỏ tươi, hương vị rất thơm ngon.Mắm sò Lăng Cô Huế thường chỉ cần ướp khoảng 15 ngày, khi sò nổi lên là lúc ta có thể thưởng thức rồi.
Mè xửng Huế hay còn được biết đến với cái tên là mè vừng là một trong những đặc sản của Huế gắn liền người Huế từ bao đời nay. Cũng có thể nói, mè xửng đã trở thành một niềm tự hào của của những con người cố đô.
Vị ngọt của đường, sự dẻo của mạch nha cùng với sự giòn của đậu phộng cứ ăn vào một miếng khiến bạn ăn mà nhớ mãi. Mè xửng Huế còn được ví như một thứ đặc sản của Huế làm quà ngon rẻ không thể thiếu cho chuyến du lịch.
Mắm Tôm chua cũng là một đặc sản mắm Huế mua làm quà rất được khách du lịch ưa chuộng. Mắm tôm chua Huế có vị chua thanh thanh của tôm, vị ớt cay nồng, cùng với đó là rất nhiều gia vị khác đi kèm, tất cả kết hợp lại tạo thành một hương vị vô cùng độc đáo.
Nem Huế là món ăn bạn có thể bắt gặp ở bất cứ đâu trên khắp Việt Nam. Tuy nhiên nem ở mỗi vùng miền lại có một đặc trưng riêng và nem Huế cũng không ngoại lệ.
Nem Huế được làm từ các nguyên liệu và gia vị quen thuộc như thịt heo, bì heo, tỏi, ớt, hạt tiêu...được gói cẩn thận trong lá chuối, khoảng 2 - 3 ngày sau là chín. Nem Huế rất thích hợp làm quà tặng cho bạn bè, gia đình và đồng nghiệp sau chuyến du lịch Huế về.
Tré Huế cũng là món ăn cùng ho với nem. Hương vị tré cũng ngon và hấp dẫn chẳng kém gì nem. Tré Huế có 2 loại: tré bò và tré heo.
Tré bò Huế có màu nâu sẫm bắt mắt, gọi là tré bò nhưng nguyên liệu chính là thịt ba chỉ rán vàng, trộn với riềng, tỏi, thính,...bọc trong lá ổi và có lớp lá chuối ngoài cùng (giống nem). Tré heo Huế thì có màu nâu đỏ được trộn bóp với thính, tỏi, riềng,...lá đinh lăng được bọc bên trong lớp lá chuối ngoài cùng.
Kẹo cau là một món quà vặt đã có ở Huế từ rất lâu đời. Đây sẽ là món quà ở Huế rất được trẻ con yêu thích. Bởi hình dáng bên ngoài giống hệt những miếng cau đã được bổ sẵn, màu sắc bắt mắt.
Kẹo cau Huế có phần vỏ ngoài màu trắng được làm từ bột trộn đường, phần ruột bên trong là đường đã cô lại có màu vàng nhạt.
Hạt sen Huế nổi tiếng như là một vị thuốc quý vừa có tác dụng bổ dưỡng lại an thần, được dùng trong nhiều đơn thuốc. Đặc biệt hạt sen còn dùng chữa trị các chứng tiêu chảy kéo dài, suy dinh dưỡng, rất tốt cho những người thường xuyên mất ngủ, huyết áp hạ, hay đau đầu suy nhược cơ thể.
Bưởi Thanh Trà là một đặc sản dân dã của vùng đất cố đô Huế. Khác với các loại bưởi khác, bưởi Thanh Trà gây ấn tượng với lớp vỏ bưởi màu vàng chanh. Bên trong bưởi lại có vị ngọt thanh, hương vị lưu lại trong miệng rất lâu sau khi thưởng thức. Mùi thơm của bưởi Thanh Trà không chỉ có ở ruột mà vỏ, lá, hoa cũng mang một hương thơm rất dễ chịu.
Dầu tràm Huế có tác dụng giúp tránh gió, tránh cảm lạnh và phòng ho rất hiệu quả. Sử dụng được cho cả trẻ em, phụ nữ mang thai và người già. Dầu tràm Huế sẽ là món quà đặc sản của Huế rất ý nghĩa dành tặng cho người thân và bạn bè, đặc biệt là người già và gia đình có trẻ nhỏ.
Trà Cung Đình Huế là một trong những loại trà được kết hợp bởi rất nhiều loại thảo dược quý hiểm như: Tim sen, Khổ qua, Vối nụ, Atiso, Hảo quyết minh, Hồi hoa, Hồng táo, Hoa hòe, Cúc hoa, Hoài sơn, Đại táo, Cỏ ngọt, Cam thảo Bắc, Hoa lài tất cả những loại thảo dược này đều được lựa chọn và sơ chế rất tỉ mỉ, công phu, đem lại hương vị thơm ngon, thanh mát. Với những người yêu trà thì Trà Cung Đình Huế là món quà không thể bỏ qua.
Nhắc đến trà vả Huế, người ta nhớ ngay đến trà vả Lộc Mai. Trà vả Huế được sản xuất hoàn toàn từ quả vả, không sử dụng thêm bất cứ loại phụ gia hay hương liệu nào khác. Vì vậy, trà vả đặc sản của Huế mua về làm quà rất tốt cho sức khỏe.
Trà vả Huế có tác dụng như: làm giảm nguy cơ gây bệnh tim mạch, ổn định đường huyết, chữa các bệnh về đường hô hấp (như: ho gà, hen suyễn), làm mạnh dạ dày,... và nhiều công dụng khác nữa.
Rượu Cung Đình Huế Nhất Dạ Đế Vương là đặc sản nổi tiếng xứ Huế được chế biến từ gạo lứt đỏ làng Chuồn ngâm với thang thuốc Minh Mạng Thang. Rượu Cung đình Huế là món quà đặc biệt dành cho Quý ông, quý bà, hỗ trợ điều trị suy nhược cơ thể, yếu sinh lý, nhức mỏi, bồi bổ khí huyết, tráng dương, bổ thận, tăng cường sinh lực.
Mong là với cẩm nang bỏ túi này sẽ giúp ít cho các bạn có kinh nghiệm trong chuyến đi du lịch Huế tự túc thật vui và ý nghĩ.
Du Lich Huế không còn là cái tên xa lạ đối với các tín đồ đam mê du lịch thích khám phá, trải nghiệm và nghỉ dưỡng. Hằng năm, nơi đây đón hàng triệu lượt khách du lịch trong và ngoài nước bởi các món ăn ngon tại Huế, các địa danh du lịch Huế cùng với các di tích lịch sử ở Huế khiến cho du lịch ở Huế trở thành điểm du lịch nổi tiếng không chỉ ở Việt Nam mà còn ở khu vực Châu Á. Tuy nhiên, không phải ai cũng có kinh nghiệm khi đi du lịch Huế tự túc. Sau đây HItour.vn gửi đến các bạn cẩm nang chi tiết, hy vọng cẩm nang này sẽ đồng hành cùng bạn trên các chuyến vivu Huế sắp tới.
HItour sẽ đề xuất và cung cấp thông tin chi tiết cho bạn về các địa điểm du lịch ở Huế để bạn có thể tự sắp xếp, lên kế hoạch cho chuyến đi của mình được tốt nhất.(Danh sách sắp xếp theo thứ tự Mục lục bài viết)
Huế là một thành phố trực thuộc tỉnh Thừa Thiên – Huế, Việt Nam.
Huế từng là kinh đô (cố đô Huế) của Việt Nam thời phong kiến dưới triều Tây Sơn (1788 - 1801) và nhà Nguyễn (1802 – 1945). Hiện nay, thành phố là một trong những trung tâm về văn hoá – du lịch, y tế chuyên sâu, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ của Miền Trung - Tây Nguyên và cả nước. Những địa danh nổi bật là sông Hương và những di sản để lại của triều đại phong kiến.
Thành phố Huế có năm danh hiệu UNESCO ở Việt Nam:
Ngoài ra, Huế còn là một trong những địa phương có di sản hát bài chòi đã được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
Diện tích tự nhiên 71,68 km2, dân số năm 2012 ước là 344,581 người. Tính đến năm 2018, dân số thành phố là 455,230 người (tính luôn cả người không đăng kí cư trú).
Thành phố tọa lạc hai bên bờ hạ lưu sông Hương, cách thủ đô Hà Nội 668km về phía nam, cách Thành phố Hồ Chí Minh 1039km về phía bắc, cách Đà Nẵng 105km về phía bắc.
Thành phố Huế có sự ngoại lệ về khí hậu so với Bắc Bộ và Nam Bộ, vì nơi đây khí hậu khắc nghiệt và có sự khác nhau giữa các vùng và khu vực trong toàn tỉnh. Huế có khí hậu nhiệt đới gió mùa, thuộc Phân loại khí hậu Köppen. Mùa khô từ tháng Ba đến tháng Tám, với nhiệt độ khá cao từ 35 - 40oC (95 đến 104oF). Mùa mưa từ tháng Tám đến tháng Giêng, với một mùa lũ từ tháng Mười, trở đi. Nhiệt độ trung bình mùa mưa là 20oC (68oF), đôi khi thấp nhất là 9oC (48oF). Mùa xuân kéo dài từ tháng giêng đến cuối tháng Hai.
Khoảng tháng 3 hàng năm, thời tiết Huế lúc này đang còn tương đối mát mẻ, trời cũng hiếm khi mưa nên các bạn có thể đi Huế vào dịp này, nhất là những gia đình có trẻ em và người già.
Dịp lễ 30 - 4 ở Huế thường tổ chức các lễ hội festival với rất nhiều hoạt động văn hóa đặc sắc, ngoài ra vào dịp này cũng thường có lễ hội pháo hoa quốc tế ở Đà Nẵng, các bạn có thể lên lịch trình đi du lịch Huế kết hợp với Du Lich Đà Nẵng rất phù hợp.
Thành phố Hồ Chí Minh cách Huế khoảng gần 1039km về phía bắc, thời gian di chuyển giữa 2 thành phố này sẽ mất khoảng 25 tiếng. Hằng ngày có rất nhiều các tuyến xe giường nằm chất lượng cao đi Huế, các bạn ở Sài Gòn bạn mua vé ở bến xe Miền Đông.
Tham khảo một xe khách chất lượng cao đi Huế từ Sài Gòn:
Xe khách Phương Trang
Xe khách Hạnh Cafe
Xe khách Thuận Thảo
Xe khách Minh Phương
Từ Sài Gòn hàng ngày đều có 5 chuyến tàu Thống Nhất khởi hành đi Huế theo bảng giờ tàu như dưới đây, tùy vào kế hoạch riêng mà các bạn chọn giờ tàu cho phù hợp.
Hàng ngày đều có chuyến bay từ TP.HCM đến Huế với nhiều hãng như Vietnam Airlines, VietjetAir, Jetstar với giá vé khứ hồi khoảng từ 1,500.000đ - 2,000,000đ.
Sân bay Phú Bài cách trung tâm Thành phố Huế khoảng 40km, các bạn có thể sử dụng dịch vụ xe buýt đưa khách từ sân bay về trung tâm thành phố Huế với giá vé khoảng 50,000đ/người.
Thành phố Hà Nội cách Huế khoảng gần 668km về phía Nam, thời gian di chuyển giữa 2 thành phố này sẽ mất khoảng 13 tiếng. Hằng ngày có rất nhiều các tuyến xe giường nằm chất lượng cao đi Huế, các bạn ở Hà Nội bạn mua vé ở bến xe Giáp Bát, bến xe Nước Ngầm, bến xe Lương Yên..
Xe khách Hưng Thành
Xe khách Hoàng Long
Xe khách An Phú
Xe khách Camel
Từ Hà Nội hàng ngày đều có 5 chuyến tàu Thống Nhất khởi hành đi Huế theo bảng giờ tàu như dưới đây, tùy vào kế hoạch riêng mà các bạn chọn giờ tàu cho phù hợp.
Ngoài các chuyến tàu Thống Nhất, từ Hà Nội còn có chuyến tàu SE19 đi Đà Nẵng, tàu này xuất phát từ ga Hà Nội lúc 8:00 và tới Huế vào khoảng 10:00 sáng hôm sau.
Hàng ngày đều có chuyến bay từ Hà Nội đến Huế với nhiều hãng như Vietnam Airlines, VietjetAir với giá vé khứ hồi khoảng từ 2,000,000đ - 2,500,000đ.
Sân bay Phú Bài cách trung tâm Thành phố Huế khoảng 40km, các bạn có thể sử dụng dịch vụ xe buýt đưa khách từ sân bay về trung tâm thành phố Huế với giá vé khoảng 50,000đ/người.
Với những địa điểm ngoại thành hoặc nội thành Huế ở xa hay gần, hãy thuê cho mình một chiếc xe máy vì đây là phương tiện lưu thông thuận tiện và chủ động nhất, trang bị một tấm bản đồ du lịch Huế và tự mình khám phá Huế nhé. Ở Huế muốn thuê một chiếc xe máy, các bạn chỉ cần tới khu vực đường Hùng Vương (từ cầu Trường Tiền đến ngã 4 Hùng Vương - Nguyễn Tri Phương), khu vực phố Tây trên đường Lê Lợi, các tuyến đường Phạm Ngũ Lão, Chu Văn An.
Một số địa điểm thuê xe máy ở Huế dưới đây với giá thuê từ 150,000đ - 200,000đ/xe/ngày:
Thuê xe máy Trường Thiện
Thuê xe máy Anh Tiến
Thuê xe máy Anh Cường
Thuê xe máy tại Huế
Hướng dẫn tham quan Đại Nội Huế thì nên thử xích lô ở Huế để cảm nhận hết thú vị nhất là ngắm Huế trên một chiếc xích lô, vừa thân thiện, vừa dễ cảm nhận được cái sự yên bình của Huế, nét mộc mạc, bình dị ở đây.
Cũng giống như Xích Lô phương tiện Xe đạp chỉ phù hợp di chuyển những quảng đường ngắn ở những địa điểm du lịch Huế trong nội thành, các địa điểm cho thuê xe đạp ở Huế, nằm tập trung ở đường Hùng Vương, quãng đường từ cầu Trường Tiền đến ngã 4 Hùng Vương giao với Nguyễn Tri Phương. Khu vực thứ 2 là đường Lê Lợi, khu phố Tây đối diện khách sạn Hương Giang, các đường như Phạm Ngũ Lão, Chu Văn An đều có cho thuê xe đạp.
Taxi là phương tiện giao thông di chuyển phù hợp cho nhóm mà có người lớn tuổi và trẻ em đi cùng, di chuyển cũng rất thuận tiện dù trong nội ô hay ngoại ô Huế đều được.
Taxi ở Huế theo kinh nghiệm thì mình thấy hàng Taxi Thành Công là hãng rẻ nhất cùng chất lượng đi kèm với sự hiện đại. Điện thoại: 02343.57.57.57
Bạn có thể tham khảo thêm một số hãng Taxi ở Huế khác:
Dịch vụ thuyền rồng trên sông Hương do đội thuyền rồng ban quản lý bên thuyền tổ chức với nhiều dịch vụ về du thuyền trên sông Hương, nghe ca Huế trên sông Hương, thuê thuyền tham quan các di tích cố đô Huế, đặt ăn trên thuyền rồng sông Hương, thuê thuyền vào các ngày lễ lớn của Điện Hòn Chén...
Ngồi trên thuyền du khách sẽ được trải nghiệm với cảm giác lênh đênh trên sông nước, cùng nhau thưởng thức ca Huế và thả hoa đăng, khi đó du khách mới có thể thấm dần những hương vị, âm sắc của Huế. Giá cả việc thuê thuyền còn tuỳ vào việc bạn chọn dịch vụ tuyến du lịch bằng thuyền nào.
Nhà nghỉ là loại hình lưu trú phổ biến nhất, có ở hầu khắp các địa phương cũng như các địa điểm du lịch ở Huế. Với lợi thế giá rẻ cùng sự dễ tìm, với những ai không có yêu cầu quá cao về việc lưu trú, đây có thể là một lựa chọn phù hợp.
Bạn có thể tham khảo một số Nhà nghỉ ở Huế dưới đây:
Nhà Nghỉ Gia Anh
Nhà Nghỉ Cát An
Nhà nghỉ Anh Tuấn
Nhà Nghỉ Khôi Nguyên
Những homestay này có ưu điểm là giá phòng, luôn có kèm các dịch vụ ăn uống giá cũng hợp lý, kiểu homestay mới cho phép khách du lịch tận hưởng không gian riêng tư. Đa phần các homestay hiện nay đều là các căn hộ tách biệt với chủ. Đặc biệt, các địa điểm này thường được trang trí rất đẹp.
Bạn có thể tham khảo một số Homestay ở Huế dưới đây:
Lucky Homestay
Sala Homestay Hue
Green Home Homestay
Hue Sweethouse Homestay
Hệ thống khách sạn tại Huế tập trung chủ yếu ở khu vực trung tâm thành phố Huế số lượng khách sạn khá nhiều và rất da dạng về dịch vụ từ 2 sao, 3 sao với chất lượng tốt nổi bật, giá cả phải chăng. Đặc biệt là dịch vụ của các khách sạn 4 sao, khách sạn 5 sao ở Huế, tuy chi phí cao nhưng chắc chắn những gì bạn nhận lại được sẽ khiến bạn vô cùng hài lòng.
Bạn có thể tham khảo một số Khách sạn ở Huế dưới đây:
The Scarlett Boutique Hotel
Hong Thien Ruby Hotel
Beaulieu Boutique Hotel
Khách sạn Thân Thiện
Hoàng thành Huế hay còn được gọi là Đại Nội, là vòng thành thứ hai bên trong Kinh thành Huế, có chức năng bảo vệ các cung điện quan trọng nhất của triều đình, các miếu thờ tổ tiên nhà Nguyễn và bảo vệ Tử Cấm thành nơi dành riêng cho vua và hoàng gia. Người ta thường gọi chung Hoàng thành và Tử Cấm thành là Đại Nội.
Hoàng thành được xây dựng năm 1804, nhưng mãi đến năm 1833 đời vua Minh Mạng mới hoàn chỉnh toàn bộ hệ thống cung điện với khoảng 147 công trình.
Hoàng thành có mặt bằng gần vuông, mỗi bề khoảng 600 mét, xây bằng gạch, cao 4m, dày 1m, xung quanh có hào bảo vệ, có 4 cửa để ra vào: Cửa chính (phía Nam) là Ngọ Môn, phía Đông có cửa Hiển Nhơn, phía Tây có cửa Chương Đức, phía Bắc có cửa Hòa Bình. Các cầu và hồ được đào chung quanh phía ngoài thành đều có tên Kim Thủy.
Hoàng thành và toàn bộ hệ thống cung điện bên trong được bố trí trên một trục đối xứng, trong đó trục chính giữa được bố trí các công trình chỉ dành cho vua. Các công trình ở hai bên được phân bố chặt chẽ theo từng khu vực, tuân thủ nguyên tắc (tính từ trong ra): "tả nam hữu nữ", "tả văn hữu võ". Ngay cả trong các miếu thờ cũng có sự sắp xếp theo thứ tự "tả chiêu hữu mục" (bên trái trước, bên phải sau, lần lượt theo thời gian).
Mặc dù có rất nhiều công trình lớn nhỏ được xây dựng trong khu vực Hoàng thành nhưng tất cả đều được đặt giữa thiên nhiên với các hồ lớn nhỏ, vườn hoa, cầu đá, các hòn đảo và các loại cây lưu niên tỏa bóng mát quanh năm. Mặc dù quy mô của mỗi công trình có khác nhau, nhưng về tổng thể, các cung điện ở đây đều làm theo kiểu "trùng lương trùng thiềm" (hay còn gọi là "trùng thiềm điệp ốc" - kiểu nhà kép hai mái trên một nền), đặt trên nền đá cao, vỉa ốp đá Thanh, nền lát gạch Bát Tràng có tráng men xanh hoặc vàng, mái cũng được lợp bằng một loại ngói đặc biệt hình ống có tráng men thường gọi là ngói Thanh lưu ly (nếu có màu xanh) hoặc Hoàng lưu ly (nếu có màu vàng). Các cột được sơn thếp theo mô típ long - vân (rồng - mây). Nội thất cung điện thường được trang trí theo cùng một phong cách nhất thi nhất họa (một bài thơ kèm một bức tranh) với rất nhiều thơ bằng chữ Hán và các mảng chạm khắc trên gỗ theo đề tài bát bửu, hay theo đề tài tứ thời.
Khu vực phòng vệ: gồm vòng thành bao quanh bên ngoài, cổng thành, các hồ (hào), cầu và đài quan sát.
Khu vực cử hành đại lễ, gồm các công trình:
Khu vực các miếu thờ: được bố trí ở phía trước, hai bên trục dọc của Hoàng thành theo thứ tự từ trong ra gồm:
Khu vực dành cho bà nội và mẹ vua (phía sau, bên phải), gồm hệ thống Trường Sanh cung (dành cho các Thái hoàng thái hậu) và Diên Thọ cung (dành cho các Hoàng thái hậu).
Khu vực dành cho các hoàng tử học tập, giải trí như vườn Cơ Hạ, điện Khâm văn... (phía sau, bên trái).
Ngoài ra còn có kho tàng (Phủ Nội vụ) và các xưởng chế tạo đồ dùng cho hoàng gia (phía trước vườn Cơ Hạ).
Khu vực Tử Cấm thành nằm trên cùng một trục Bắc - Nam với Hoàng thành và Kinh thành, gồm một vòng tường thành bao quanh khu vực các cung điện như:
Đến nay, trải qua bao biến động và thời gian, hàng trăm công trình kiến trúc ở Đại Nội chỉ còn lại ít ỏi chiếm không đầy một nửa con số ban đầu.
Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế nằm tại số 3, đường Lê Trực, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Đây là Bảo tàng được thành lập sớm nhất ở Huế (năm 1923), với tên gọi đầu tiên là Musée Khải Định. Sau đó Bảo tàng này nhiều lần được đổi tên: Tàng Cổ Viện Huế (1947) Viện Bảo tàng Huế (1958), Nhà trưng bày Cổ vật (1979), Bảo tàng Cổ vật Huế (1992), Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế (1992).
Khuôn viên của Bảo tàng rộng 6.330m2, tòa nhà chính ở giữa diện tích 1.185m2 và một số nhà phụ dùng làm các kho tàng trữ cổ vật và sân vườn.
Tòa nhà chính vốn là Điện Long An trong cung Bảo Định được dời ra đây năm 1909 để làm Tân Thơ viện của trường Quốc Tử Giám. Năm 1923 theo đề nghị của Hội Đô Thành Hiếu Cổ, tòa nhà này được dùng làm Musée Khải Định.
Điện Long An là một công trình kiến trúc tuyệt mỹ bằng gỗ được xây dựng theo kiểu "trùng thiềm điệp ốc" với 128 cột. Trang trí nội ngoại thất cực kỳ phong phú, giàu tính nghệ thuật và rất thanh nhã.
Hiện vật trong Bảo tàng được sưu tầm và tàng trữ từ năm 1913 (khi Hội Đô Thành Hiếu Cổ được thành lập), đến trước năm 1945, số lượng hiện vật có khoảng 10.000 đơn vị, phần lớn là đồ ngự dụng, quan dụng, đồ dùng của triều đình, các tác phẩm mỹ thuật trong các Cung điện...bằng nhiều chất liệu, vàng, bạc, ngọc, đồng, ngà, thủy tinh, vải, giấy...
Ngoài ra, tại Bảo tàng còn một kho lưu giữ hàng ngàn hiện vật do triều đình sản xuất tại chỗ, hoặc đặt làm, đặt mua quà do các phái bộ ngoại giao biếu tặng. Một kho lưu hơn 80 hiện vật Chàm được sưu tập tại châu Ô, châu Lý xưa và trong cuộc khai quật khảo cổ tại Trà Kiệu (1927).
Cầu Trường Tiền còn được gọi là Cầu Tràng Tiền, là chiếc cầu dài 402,60 m, gồm 6 nhịp dầm thép hình vành lược, khẩu độ mỗi nhịp 67 m. Khổ cầu 6 m, được thiết kế theo kiến trúc Gothic, bắc qua sông Hương. Đầu cầu phía bắc thuộc phường Phú Hòa, đầu cầu phía nam thuộc phường Phú Hội; ở ngay giữa thành phố Huế thuộc Việt Nam.
Nguồn lợi thủy sản tự nhiên rất phong phú như động vật, thực vật, rong biển, cá biển và khoảng 300ha rừng mập mặn.
Trong Sự kiện Tết Mậu Thân, trụ 3 và nhịp 4 bị phá hủy, khi quân Mặt trận Giải phóng miền Nam cho giật sập để cắt đường phản công của quân đội Việt Nam Cộng hòa. Sau đó, một chiếc cầu phao được dựng tạm lên bên cạnh để nối đôi bờ; rồi cầu được tu sửa tạm thời.
Sau khi kết thúc chiến tranh Việt Nam cầu được đổi tên thành "Tràng Tiền" mãi tới năm 1991 cầu mới được khôi phục lại tên cũ là Trường Tiền, trùng tu lần nữa. Ở lần trùng tu này do Công ty Cầu 1 Thăng Long đảm nhiệm, kéo dài trong 5 năm (1991-1995), có nhiều thay đổi quan trọng, đó là việc dỡ bỏ các ban công ở hành lang hai bên tại vị trí các trụ cầu, lòng cầu (cả đường chính và phụ) bị hẹp lại do phải nẹp thêm hai ống lan can, màu sơn ghi xám thay cho màu nguyên bản từ xưa của cầu là màu nhũ bạc,...
Từ Festival Huế năm 2002, cầu Tràng Tiền được lắp đặt một hệ thống chiếu sáng đổi màu hiện đại...và đến năm 2004 cầu lại 1 lần nữa được đổi tên là Trường Tiền.
Sông Hương hay Hương Giang là con sông chảy qua thành phố Huế và các huyện, thị xã: Hương Trà, Hương Thủy, Phú Vang đều thuộc tỉnh Thừa Thiên - Huế, miền Trung Việt Nam.
Sông Hương có hai nguồn chính đều bắt nguồn từ dãy núi Trường Sơn.Dòng chính của Tả Trạch dài khoảng 67 km, bắt nguồn từ dãy Trường Sơn Đông, ven khu vực vườn quốc gia Bạch Mã chảy theo hướng tây bắc với 55 thác nước hùng vĩ, qua thị trấn Nam Đông rồi sau đó hợp lưu với dòng Hữu Trạch tại ngã ba Bằng Lãng (khoảng 3 km về phía bắc khu vực lăng Minh Mạng). Hữu Trạch dài khoảng 60 km là nhánh phụ, chảy theo hướng bắc, qua 14 thác và vượt qua phà Tuần để tới ngã ba Bằng Lãng, nơi hai dòng này gặp nhau và tạo nên sông Hương.
Từ Bằng Lãng đến cửa sông Thuận An, sông Hương dài 33 km và chảy rất chậm (bởi vì mực nước sông không cao hơn mấy so với mực nước biển). Khi chảy quanh dọc chân núi Ngọc Trản, sắc nước sông Hương xanh hơn đây là địa điểm Điện Hòn Chén. Tại đây có một vực rất sâu.
Sông Hương được cho là rất đẹp khi chiêm ngưỡng nó từ nguồn và khi nó chảy quanh các chân núi, xuyên qua các cánh rừng rậm của hệ thực vật nhiệt đới. Con sông chảy chậm qua các làng mạc như Kim Long, Nguyệt Biều, Vỹ Dạ, Đông Ba, Gia Hội, chợ Dinh, Nam Phổ, Bao Vinh. Ði chơi bằng thuyền để được ngắm cảnh Hương giang thơ mộng, nghe những điệu hò, dân ca xứ Huế lúc trời đêm thanh vắng là thú vui muôn thuở của bao lớp du khách...
Núi Ngự Bình gọi ngắn gọn là núi Ngự, trước có tên là Hòn Mô hay Núi Bằng (Bằng Sơn) là một hòn núi đất cao 103m ở bờ phải sông Hương (giữa Cồn Hến và Cồn Giã Viên), cách trung tâm thành phố Huế (thuộc tỉnh Thừa Thiên - Huế, Việt Nam) 4 km về phía Nam.
Núi Ngự có dạng hình thang, đỉnh bằng phẳng, hai bên có hai ngọn núi nhỏ chầu vào gọi là Tả Bật Sơn và Hữu Bật Sơn. Bởi núi có hình dạng như thế, nên khi chúa Nguyễn Phúc Trăn (1687-1691) dời thủ phủ Đàng Trong từ làng Kim Long (thuộc huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên) về làng Phú Xuân (chỗ của Kinh thành Huế ngày nay) vào năm 1687, đã dùng núi ấy làm án (chắn ngang) trước thủ phủ. Về sau, khi chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) xây dựng đô thành Phú Xuân (hoàn tất năm 1739), và vua Gia Long xây dựng Kinh thành Huế 1805 cũng đặt núi Bằng làm án.
Cùng với sông Hương, núi Ngự Bình hòa quyện vào nhau tạo nên vẻ sơn thủy hữu tình của Huế, và đã trở thành biểu tượng của thiên nhiên Huế từ rất lâu. Vì vậy, người ta quen gọi Huế là xứ sở của "sông Hương núi Ngự".
Tối ngày 29 - 9 - 2017, Tuyến phố đi bộ Huế thuộc phường Phú Hậu, Thành phố Huế chính thức mở cửa. Ngay từ 18:00 cùng ngày, các xe cộ đã được cấm đi vào khu phố, hàng trăm người dân và du khách đã tập trung về đây để đi dạo trên khu phố đi bộ mới
Theo đó, bắt đầu từ thứ Sáu đến Chủ nhật hàng tuần, tuyến đường Phạm Ngũ Lão, Chu Văn An, Võ Thị Sáu nơi thường được gọi là "phố Tây", sẽ cấm phương tiện giao thông từ 18:00 hôm trước đến 02:00 sáng ngày hôm sau để trở thành phố đi bộ. Trước đó, chính quyền địa phương đã sắp xếp lại các cơ sở kinh doanh, dịch vụ trên các tuyến đường nêu trên theo hướng phù hợp với phố đi bộ, đồng thời phát thẻ gửi xe miễn phí cho các hộ dân sinh sống xung quanh ba tuyến đường này.
Đồng thời các bạn có thể thưởng thức các hoạt động trên tuyến phố đi bộ như không gian ẩm thực trên vỉa hè, chương trình nghệ thuật đường phố, các bạn có thể tham quan và chụp ảnh miễn phí các không gian đẹp, trưng bày các sản phẩm thủ công mỹ nghệ...
Lăng Gia Long hay Thiên Thọ Lăng, là lăng mộ của Gia Long hoàng đế (1762 - 1820), vị vua sáng lập triều Nguyễn. Lăng Gia Long thực ra là một quần thể nhiều lăng tẩm trong hoàng quyến, nay thuộc địa phận xã Hương Thọ, thị xã Hương Trà.
Lăng bắt đầu được xây dựng từ năm 1814 và đến năm 1820 mới hoàn tất. Toàn bộ khu lăng này là một quần sơn với 42 đồi, núi lớn nhỏ, trong đó có Đại Thiên Thọ là ngọn núi lớn nhất được chọn làm tiền án của lăng và là tên gọi của cả quần sơn này. Từ bờ sông Hương đi vào lăng có con đường rộng hai bên trồng thông và sầu đông cao vút, xanh um, tạo ra một không khí trong mát, tĩnh mịch. Hai cột trụ biểu uy nghi nằm ở ngoài cùng báo hiệu khu vực lăng.
Lăng Minh Mạng còn gọi là Hiếu Lăng (do vua Thiệu Trị cho xây dựng), nằm trên núi Cẩm Khê, gần ngã ba Bằng Lãng là nơi hội lưu của hai dòng Hữu Trạch và Tả Trạch hợp thành sông Hương, cách cố đô Huế 12km. Lăng Minh Mạng được xây dựng từ năm 1840 đến năm 1843 thì hoàn thành, huy động tới mười nghìn thợ và lính.
Lăng Thiệu Trị có tên chữ là Xương Lăng là nơi chôn cất hoàng đế Thiệu Trị. Đây là một di tích trong Quần thể di tích cố đô Huế được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới ngày 11 - 12 - 1993.
Lăng Thiệu Trị nằm dựa lưng vào núi Thuận Đạo, ở địa phận làng Cư Chánh, xã Thủy Bằng, huyện Hương Thủy, cách Kinh thành Huế chừng 8km. So với lăng tẩm các vua tiền nhiệm và kế vị, lăng Thiệu Trị có những nét riêng. Đây là lăng duy nhất quay mặt về hướng Tây Bắc, một hướng ít được dùng trong kiến trúc cung điện và lăng tẩm thời Nguyễn.
Cách lăng 8 km về phía trước, ngọn núi Chằm sừng sững được chọn làm tiền án. Dòng sông Hương chảy qua trước mặt làm yếu tố minh đường. Ngay cách chọn "Tả thanh long" và "Hữu bạch hổ" cũng có những nét khác thường: đồi Vọng Cảnh ở bên này sông được chọn làm "rồng chầu", nhưng "hổ phục" lại là ngọn Ngọc Trản ở bên kia sông. Đằng sau, núi Kim Ngọc xa mờ trong mây được chọn làm hậu chẩm; đồng thời, những người kiến trúc lăng còn đắp thêm một mô đất cao lớn ở ngay sau lăng để làm hậu chẩm thứ hai. Một nét riêng khác là lăng không có La thành bao quanh.
Nếu ở lăng Gia Long, La thành bằng gạch được thay thế bởi vô số núi đồi bao quanh như một vành đai tự nhiên, hùng tráng bảo vệ giấc ngủ cho vị tiên đế triều Nguyễn thì ở lăng Thiệu Trị, những cánh đồng lúa, những vườn cây xanh rờn ở chung quanh được xem là La thành. Chính vòng La thành thiên nhiên đó tạo cho cảnh quan lăng Thiệu Trị sự thanh thoát và yên bình.
Lăng Tự Đức là một quần thể công trình kiến trúc, trong đó có nơi chôn cất Tự Đức, tọa lạc trong một thung lũng hẹp thuộc làng Dương Xuân Thượng, tổng Cư Chánh (cũ), nay là thôn Thượng Ba, phường Thủy Xuân, thành phố Huế. Lúc mới xây dựng, lăng có tên là Vạn Niên Cơ, sau cuộc Loạn Chày Vôi, Tự Đức bèn đổi tên thành Khiêm Cung. Sau khi Tự Đức băng hà, lăng được đổi tên thành Khiêm Lăng.
Lăng Tự Đức có kiến trúc cầu kỳ, phong cảnh sơn thủy hữu tình và là một trong những lăng tẩm đẹp nhất của hoàng gia nhà Nguyễn.
Lăng Ðồng Khánh hay Tư Lăng là một di tích trong quần thể di tích cố đô Huế đây là nơi an táng vua Đồng Khánh, lăng tọa lạc giữa một vùng quê thuộc làng Cư Sĩ, xã Dương Xuân ngày trước (nay là thôn Thượng Hai, phường Thủy Xuân, thành phố Huế).
Ðồng Khánh tên là Nguyễn Phúc Ưng Ðường, con trai cả của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai (1845 - 1876), người sinh thành 3 vị vua: Kiến Phúc (1883 - 1884), Hàm Nghi (1884 - 1885) và Ðồng Khánh (1886 - 1888). Công việc xây dựng lăng tẩm vua Đồng Khánh đã được bắt đầu từ năm cuối đời vua ( 1888 khu vực điên Truy Tư sau đổi tên thành điện Ngưng Hy), làm thêm từ năm đầu thời Thành Thái (1889 khu vực lăng mộ) rồi sửa chữa và mở rộng quy mô dưới thời Khải Định (các năm 1915,1917,1921,1923).
Về mô thức kiến trúc, lăng Đồng Khánh có khoảng 20 công trình kiến trúc lớn nhỏ với mật độ tương đối dày. Khu vực tẩm quay về hướng đông nam, ngay trước mắt có đào hồ bán nguyên để làm yếu tố "minh đường" và ngọn đồi Thiên An cách đó khoảng 3 km được dùng làm tiền án. Khu vực lăng mộ lại quay về hướng đông-đông nam, tiền án của nó là núi Thiên Thai... Nếu tượng các quan viên ở lăng Tự Đức được tạc bằng đá với cỡ người quá thấp, thì ngược lại, tượng các quan viên ở lăng Đồng Khánh chỉ được đắp bằng voi gạch với dáng cao ngưng gầy.
Lăng Ðồng Khánh được xây dựng trong buổi giao thời của lịch sử Việt Nam nên kiếm trúc lăng đan xem giữa kiến trúc cung đình, kiến trúc dân gian và kiến trúc mới du nhập. Trong một chừng mực nhất định, kiến trúc lăng đã thành công trong việc thể nghiệm cái mới, đưa yếu tố dân dã vào trong cung đình khiến lăng Ðồng Khánh hòa hợp với phong cảnh thôn dã trong vùng.
Lăng Dục Ðức tên chữ An Lăng là một di tích trong quần thể di tích cố đô Huế, là nơi an táng vua Dục Ðức, vị vua thứ năm của triều đại nhà Nguyễn. Lăng tọa lạc tại thôn Tây Nhất, làng An Cựu, xưa thuộc huyện Hương Thủy, nay thuộc phường An Cựu, thành phố Huế, cách trung tâm thành phố chưa đầy 2 km.
Khái niệm khu lăng Dục Ðức thường dùng hiện nay là để chỉ toàn bộ quần thể kiến trúc nằm trong một khu vực rộng gần 6ha, bao gồm lăng vua Dục Ðức, hoàng hậu và 42 tẩm mộ ông hoàng bà chúa cùng 121 ngôi mộ đất của những người thuộc Ðệ Tứ Chánh phái Nguyễn Phước tộc (hệ phái của vua Dục Ðức).
Là nơi an táng của 3 vua nhà Nguyễn: Dục Ðức, Thành Thái và Duy Tân. Dục Đức lên ngôi năm 1883 được 3 ngày thì bị phế truất và mất, sau này con ông là vua Thành Thái (lên ngôi năm 1889) cho xây lăng để thờ cha đặt tên là An Lăng. Năm 1954, khi vua Thành Thái mất, thi hài được đưa về chôn tại địa điểm hiện nay trong khu vực An Lăng và được thờ ở ngôi điện Long Ân. Năm 1987, hài cốt vua Duy Tân được đưa về an táng cạnh lăng Thành Thái.
An Lăng nằm ở khu vực trung tâm, diện tích khoảng 1ha. Lăng gồm 2 khu vực: khu lăng mộ và khu tẩm thờ đặt song song với nhau. Cả hai khu đều có tường thành bao bọc. Lăng quay mặt về phía tây bắc, lấy đồi Phước Quả làm tiền án, núi Tam Thai sau lưng làm hậu chẩm và dòng khe chảy vòng qua trước mặt làm minh đường tụ thủy.
Lăng Khải Định, còn gọi là Ứng Lăng, là lăng mộ của vua Khải Định (1885 - 1925), vị vua thứ 12 của triều Nguyễn, toạ lạc trên triền núi Châu Chữ (còn gọi là Châu Ê) bên ngoài kinh thành Huế, nay thuộc xã Thủy Bằng, thị xã Hương Thủy.
Về kiến trúc lăng Khải Định được người đời sau thường đặt ra ngoài dòng kiến trúc truyền thống thời Nguyễn bởi cái mới, cái lạ, cái độc đáo, cái ngông nghênh, lạc lõng...bởi sự pha trộn kiến trúc Đông Tây Kim Cổ lạ thường, với các tác phẩm nghệ thuật ghép tranh sành sứ độc đáo.
Huế không chỉ nổi tiếng với cảnh sắc thiên nhiên mơ mộng hữu tình mà còn đặc biệt hấp dẫn với chiều sâu của vẻ đẹp văn hóa tinh thần kết đọng nhuần nhị nơi mỗi nét kiến trúc. Cùng với các lăng tẩm trầm mặc. Hoàng thành cổ kính, những ngôi nhà vườn êm ả thanh bình ở đây làm nên thành phố nhà vườn Huế.
Nhà vườn Huế được xây theo luật "dịch lý" và "phong thủy", nhà vườn Huế là tập hợp của một hệ thống kiến trúc sắp xếp theo chiều Bắc - Nam. Tuy rộng hẹp khác nhau, nhưng nhà nào cũng có kiến trúc tổng thể giống nhau, bao gồm: cổng, ngõ, bình phong, hòn non bộ, bể cạn, sân, nhà. Cổng thường xuyên xây bằng gạch, lối vào ngõ thường được trồng những hàng râm bụt hoặc chè tàu cắt xén cẩn thận. Bình phong cũng thường xây bằng gạch. Sau bình phong là bể cạn có hòn non bộ, một mảnh sân rộng rồi mới đến nhà. Xung quanh nhà trồng rất nhiều cây, hoa quanh năm tươi tốt.
Trong khu nhà vườn ấy, không thể không nói tới ngôi nhà rường cổ. Nhà rường thường được làm bằng gỗ, chúng được cầu hỳ hóa bằng nhiều nét văn hoa chạm trổ, trong liên kết của kết cấu nhà, thay cho đóng đinh là kỹ thuật mộng tinh xảo. Nhà rường có nhiều dạng: một gian hai chái, ba gian hai chái, năm gian hai chái, nhà rường lầu...rường là cách nói ngắn gọn của rường cột, nhà có hệ thống cột kèo gỗ được dựng lên theo những quy cách nhất định. Dù lớn đến đâu, nhà rường cũng được kết cấu hoàn toàn bằng chốt, mộng gỗ để có thể lắp ráp và tháo dỡ dễ dàng. Trong nhà bày sập gụ, tủ chè, treo hoành phi, câu đối, đồ đạc được bài trí hài hòa hợp lý, tạo cho nhà rường cái thần thái riêng biệt.
Nhìn cảnh quan một nhà vườn Huế, người ta dễ dàng nhận ra được tâm hồn và phong cách sống của chủ nhân. Nhà vườn Huế thể hiện sự hòa hợp giữa đời sống con người và cây cỏ, giữa nếp sống tinh thần và vật chất, tất cả đều bổ sung cho nhau, để tạo nên sự cân bằng trong cuộc sống.
Một số nhà vườn hiện nay còn nguyên vẹn, tiêu biểu như: nhà vườn An Hiên, nhà vườn công chúa Ngọc Sơn, Lạc Tịnh, nhà vườn Ý Thảo...
Nhà thờ chính tòa Phủ Cam, tên chính thức là Nhà Thờ Chính Tòa Trái Tim Cực Sạch Đức Mẹ. Nhà thờ này là nhà thờ chính tòa của Tổng Giáo phận Huế và là nhà thờ mẹ của các nhà thờ trong giáo tỉnh Huế, tọa lạc trên đồi Phước Quả, thuộc địa phận phường Phước Vĩnh, thành phố Huế. Đây là một trong những nhà thờ to lớn, nổi tiếng và lâu đời nhất tại Huế. Ngôi nhà thờ ngày nay được xây theo lối kiến trúc hiện đại, do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ thiết kế.
Mặt bằng xây dựng nhà thờ mang dạng thánh giá, đầu hướng về phía Nam đuôi hướng Bắc. Nhà thờ có kết cấu theo kỹ thuật xây dựng hiện đại nhưng phần trang trí vẫn theo nghệ thuật cổ điển của phương Tây. Các trụ đỡ được đúc sát vào tường, chạy uốn cong dần về phía trước, mềm mại. Bốn góc mỗi góc có ba trụ đỡ vươn dần ra, tạo thành một không gian đủ rộng ôm kín Cung thánh và bàn thờ.
Lòng nhà thờ rộng, có thể chứa được 2500 người đến dự lễ. Có hai dãy cửa gương màu nằm ở phần trên bên trong lòng nhà thờ cung cấp ánh sáng cho nội thất. Cung thánh là một hình tròn có các cấp đi lên, trên cung là một hình tròn nhưng nhỏ hơn với bàn thờ bằng đá cẩm thạch nguyên khối.
Nhìn tổng thể, nhà thờ Phủ Cam với đỉnh nhà thờ vươn thẳng lên trời trông vẫn thanh thoát nhẹ nhàng, mang tính nghệ thuật và tôn giáo.
Hồ Tịnh Tâm là một di tích cảnh quan được kiến tạo dưới triều Nguyễn. Dưới thời vua Thiệu Trị đây được xem là một trong 20 cảnh đẹp đất Thần Kinh.
Trước đây, hồ nguyên là vết tích của đoạn sông Kim Long chảy qua Huế. Đầu thời Gia Long, triều đình cho cải tạo một số đoạn sông và khơi dòng theo hướng khác để tạo thành Ngự Hà và hồ Ký Tế. Hai bãi nổi trong hồ này được dùng làm nơi xây dựng kho chứa thuốc súng và diêm tiêu. Năm Minh Mạng thứ 3 (1822), triều Nguyễn đã huy động tới 8000 binh lính tham gia vào việc cải tạo hồ. Năm 1838, vua Minh Mạng cho di dời hai kho sang phía đông, tái thiết nơi này thành chốn tiêu dao, giải trí và gọi là hồ Tịnh Tâm.
Hồ Tịnh Tâm có bình diện hình chữ nhật, chu vi gần 1500m, trên hồ có ba hòn đảo Bồng Lai, Phương Trượng và Doanh Châu. Hồ Tịnh Tâm được ngăn cách với bên ngoài bằng một vòng tường gạch. Bốn mặt có bốn cửa gồm cửa Hạ Huân ở phía nam, cửa Đông Hy ở phía bắc, cửa Xuân Quang ở phía đông và cửa Thu Nguyệt ở phía tây. Xung quanh các đảo trên hồ và dọc bờ hồ đều trồng các loại liễu trúc và các thứ hoa cỏ lạ, dưới hồ trồng sen trắng.
Đảo Bồng Lai ở phía nam hồ, chính giữa có điện Bồng Doanh. Điện có kiến trúc 3 gian 2 chái, mái trùng diêm, lợp ngói Hoàng lưu li, điện xây mặt về hướng nam, có lan can gạch bao quanh, phía trước có cửa Bồng Doanh, cầu Bồng Doanh nối đảo với bờ hồ phía nam. Phía đông điện Bồng Doanh có nhà Thủy tạ Thanh Tâm, quay mặt về hướng đông. Phía tây điện có lầu Trừng Luyện, quay mặt về hướng tây. Phía bắc là cửa và một cây cầu mang tên Hồng Cừ.
Đảo Phương Trượng giữa có gác Nam Huân, quay mặt về hướng nam, 2 tầng, mái lợp ngói hoàng lưu li. Phía nam có cửa Bích tảo và cầu Bích tảo. Phía bắc đảo có lầu Tịnh tâm, xây mặt hướng bắc. Phía đông có nhà Hạo Nhiên (năm 1848 đổi thành Thiên Nhiên), quay mặt về hướng đông. Phía tây có hiên Dưỡng Tính quay mặt về hướng tây. Giữa hai đảo có đình Tứ Đạt nằm giữa một hệ thống hành lang mái lợp ngói gồm 44 gian, chạy nối vào cầu Bích Tảo ở phía nam và cầu Hồng Cừ ở phía bắc.
Đảo Doanh Châu giữa hồ Tịnh tâm có đê Kim Oanh nối liền từ bờ đông qua bờ tây. Phía đông đê có cầu Lục Liễu, 3 gian, mái lợp ngói. Phía nam, đê gắn với một hành lang dài 56 gian, ở giữa là cầu Bạch Tần. Phía nam cầu có nhà tạ Thanh Tước để thuyền vua ngự. ở đoạn cuối phía tây của hành lang lại có nhà Khúc Tạ, thông với một nhà tạ khác, là Khúc Tạ Hà Phong qua một hành lang nhỏ dựng trên mặt nước. Phía nam nhà tạ này là đảo Doanh Châu.
Với kiểu kiến trúc cầu kỳ, tinh mỹ, hài hòa với tự nhiên, hồ Tịnh Tâm được xem là một thành tựu tiêu biểu của nghệ thuật kiến trúc cảnh quan Việt Nam thế kỷ 19.
An Cựu là tên một con sông nhỏ, chi lưu của sông Hương, ở phía Nam kinh thành Huế. Sông có nhiều tên gọi như Lợi Nông, Phủ Cam, Đại Giang, Hà Tự, Cống Quan, tên phổ biến ở Huế là sông An Cựu. Toàn bộ dòng sông dài khoảng 30km, bắt đầu lấy nước sông Hương từ đoạn cuối cồn Dã Viên, chảy qua địa phận Thành phố Huế, huyện Hương Thủy rồi đổ vào phá Hà Trung. Từ khi các chúa Nguyễn chọn Kim Long, rồi Phú Xuân là thủ phủ của Đàng Trong, 2 bên bờ sông An Cựu đã là nơi tập trung dinh thự, nhà vườn của các quan lại, quý tộc.
Tuy nhiên lúc này sông còn nhỏ, nhiều đoạn cạn hẹp. Năm Gia Long 13 (1814), sau khi khảo sát tình hình và hỏi ý kiến các vị bô lão ở xã Thanh Thủy, nhà vua đã cho khơi đào thêm sông An Cựu và cho đắp đập Thần Phủ ở phía dưới để lấy nước tưới tiêu, rửa mặn cho hành vạn mẫu ruộng ở khu vực này. Năm Minh Mạng thứ 2 (1821), sông An Cựu được đổi tên thành sông Lợi Nông. Bia đá khắc tên này vẫn còn. Năm Minh Mạng thứ 16 (1835) khi đúc Cửu Đỉnh, hình ảnh và tên sông đã được khắc vào Chương Đỉnh.
Chùa Thiên Mụ hay còn gọi là chùa Linh Mụ là một ngôi chùa cổ nằm trên đồi Hà Khê, tả ngạn sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 5 km về phía tây. Chùa Thiên Mụ chính thức khởi lập năm Tân Sửu (1601), đời chúa Tiên Nguyễn Hoàng vị chúa Nguyễn đầu tiên ở Đàng Trong.
Trước thời điểm khởi lập chùa, trên đồi Hà Khê có ngôi chùa cũng mang tên Thiên Mỗ hoặc Thiên Mẫu, là một ngôi chùa của người Chăm.
Truyền thuyết kể rằng, khi chúa Nguyễn Hoàng vào làm Trấn thủ xứ Thuận Hóa kiêm trấn thủ Quảng Nam, ông đã đích thân đi xem xét địa thế ở đây nhằm chuẩn bị cho mưu đồ mở mang cơ nghiệp, xây dựng giang sơn cho dòng họ Nguyễn sau này. Trong một lần rong ruổi vó ngựa dọc bờ sông Hương ngược lên đầu nguồn, ông bắt gặp một ngọn đồi nhỏ nhô lên bên dòng nước trong xanh uốn khúc, thế đất như hình một con rồng đang quay đầu nhìn lại, ngọn đồi này có tên là đồi Hà Khê.
Người dân địa phương cho biết, nơi đây ban đêm thường có một bà lão mặc áo đỏ quần lục xuất hiện trên đồi, nói với mọi người "Rồi đây sẽ có một vị chân chúa đến lập chùa để tụ linh khí, làm bền long mạch, cho nước Nam hùng mạnh". Vì thế, nơi đây còn được gọi là Thiên Mụ Sơn.
Tư tưởng lớn của chúa Nguyễn Hoàng dường như cùng bắt nhịp được với ý nguyện của dân chúng. Nguyễn Hoàng cả mừng, vào năm 1601 đã cho dựng một ngôi chùa trên đồi, ngoảnh mặt ra sông Hương, đặt tên là Thiên Mụ.
Huyền Không Sơn Thượng tọa lạc tại thôn Chầm, phường Hương Hồ, Thị xã Hương Trà là một ngôi chùa nổi tiếng, một thắng cảnh của cố đô Huế. Chùa thuộc hệ phái Phật giáo Nam tông, được Thượng tọa Giới Đức khai sơn năm 1989. Chùa nằm giữa khu rừng thông quanh năm xanh tươi, mát mẻ, chim hót líu lo.
Huyền không Sơn Thượng nằm ở lưng chừng núi với vẻ đẹp kỳ lạ, huyền ảo. Chùa không có cổng Tam quan to lớn mà cổng chùa chỉ bình thường như cổng của một ngôi nhà sân vườn Huế. Khuôn viên chùa là một khu vườn xanh ngắt với những dòng suối nhỏ nở đầy bông súng tím, những giò hoa phong lan quý, những cây sứ, thiên tuế, tùng, bách … cổ thụ hàng trăm năm tuổi, không gian yên ả thanh bình. Khu vực chùa có Chánh điện, Am mây tía, Nghinh lương đình, Nhà khách, Chúng hòa đường (nhà sinh hoạt), Quá thiện đường (nhà ăn), Tăng xá, Cốc liêu chư Tăng-Ni, cây cảnh...
Chánh điện chùa là biến thể của một ngôi nhà rường Huế với phong cách kiến trúc và chất liệu truyền thống để giữ dáng dấp hồn Huế, hồn Việt, lấy sự hài hòa với thiên nhiên, với hồn thơ làm ý tưởng chủ đạo; nhẹ vai trò tín ngưỡng, trọng tâm là hướng sống thiền, sống đạo.
Am mây tía là nơi ở, thư phòng, nơi tiếp khách và viết thư pháp của sư trụ trì. Đây cũng là nơi những người yêu thích văn chương thi phú, nghệ thuật thư pháp tìm đến để đàm đạo, bình thơ, luyện bút, khoe chữ...
Yên Hà các là nơi đón khách, có đường nét kiến trúc uyển chuyển, mái ngói, cột trụ, nội thất màu cánh gián, giản dị, đầm ấm.
Nghinh lương đình, nơi khách thập phương dừng chân nghỉ ngơi, thưởng trà, đàm đạo...
Chùa Từ Đàm là một ngôi chùa cổ danh tiếng ở Huế. Hiện tọa lạc tại số 1 đường Sư Liễu Quán, thuộc phường Trường An, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên - Huế, Việt Nam.
Chùa do Thiền sư Minh Hoằng - Tử Dung khai sơn vào khoảng cuối thế kỉ XVII, và sau đó được đặt tên là chùa Ấn Tôn, với ý nghĩa là "lấy sự truyền tâm làm tông chỉ". Năm 1841, vua Thiệu Trị đổi tên chùa Ấn Tôn thành Từ Đàm (do kỵ húy tên vua là Miên Tông), với ý nghĩa là "đám mây lành của Phật pháp".
Chùa Từ Hiếu hay Tổ đình Từ Hiếu là tên một ngôi chùa ở thôn Dương Xuân Thượng III, phường Thủy Xuân, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên-Huế. Chùa là một trong những ngôi cổ tự lớn và là một danh lam có tính văn hoá và lịch sử của cố đô Huế.
Chùa Từ Hiếu nằm khuất trong một rừng thông trên một vùng đồi (núi) của phường Thủy Xuân. Khuôn viên chùa rộng chừng 8 mẫu, phía trước có khe nước uốn quanh, phong cảnh thơ mộng.
Trước cổng chùa có ngôi tháp cao 3 tầng được xây dựng vào năm 1896 dùng làm nơi tàng trữ kinh tượng theo sắc chỉ của nhà vua. Cổng chùa được xây theo kiểu vòm cuốn, hai tầng có mái che và ngay trước con đường lát gạch để vào chánh điện là một hồ bán nguyệt trồng sen và nuôi cá cảnh...Cấu trúc chùa theo kiểu ba căn hai chái, trước là chính điện thờ Phật, sau là Quảng Hiếu Đường. Ở khu nhà hậu có án thờ Tả quân đô thống Lê Văn Duyệt cùng con ngựa gỗ và thanh đại đao của ông.
Hai bên sân chùa có hai lầu bia để ghi lịch sử xây dựng chùa. Chùa được xây theo kiểu: chính điện ba căn, hai chái, phía trước thờ Phật, phía sau thờ Tổ. Nhà hậu là Quảng Hiếu đường, ở giữa thờ đức thánh quan, bên trái thờ hương linh phật tử tại gia, bên phải thờ các vị Thái giám..., bên tả sân hậu là Tả Lạc Thiên (nhà tăng) và bên hữu là Hữu Ái Nhật (nhà khách).
Xung quanh ngôi chùa Từ Hiếu còn có khá nhiều lăng mộ các vị phi tần của các chúa Nguyễn. Do địa thế đẹp, yên tĩnh lại không xa thành phố Huế nên nơi đây là nơi điểm vui chơi dã ngoại của thanh niên Huế vào những ngày nghỉ, ngày lễ. Chùa Từ Hiếu là một trong những ngôi chùa cổ đón khách du lịch trong và ngoài nước đông nhất cố đô Huế.
Chùa Báo Quốc tọa lạc trên đồi Hàm Long trên đất xưa gọi là làng Thụy Lôi, gần với xóm Lịch Đợi. Từ đây nhìn xuống hướng đông là đường Điện Biên Phủ (con đường dẫn lên đàn Nam Giao) và nhìn về hướng bắc là ga xe lửa. Chùa do Hoà Thượng Giác Phong, người Quảng Đông, Trung Quốc, khai sơn vào cuối thế kỷ 17 dưới đời vua Lê Dụ Tông và đặt tên là Hàm Long Tự. Sau đó Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát ban sắc tứ Báo Quốc Tự vào năm 1747. Hiện vẫn còn tấm biển vàng thếp vàng và những bức liễu từ thời ấy. Thời Tây Sơn chùa bị sử dụng làm công xưởng.
Chùa Thiền Lâm hay còn có tên gọi khác là Chùa Phật đứng - Phật nằm. Chùa tọa lạc trên ngọn đồi Quảng Tế, xã Thủy Xuân, tại thành phố Huế. Đây là một ngôi chùa nổi tiếng với lối kiến trúc độc đáo thuộc hệ phái thevarada (Nam tông) tạo cho địa danh này trở thành một nét đẹp riêng tại cố đô. Chùa Thiền Lâm được Hòa thượng Hộ Nhẫn lập ra vào những năm 1960. Chùa có không gian yên tĩnh, bình an nên thu hút được nhiều khách du lịch đến đây để tham quan và thư giãn.
Chùa là quần thể bao gồm nhiều công trình khác như tháp Phật, tháp mộ, nhà tăng chúng, tượng,...Không giống với những ngôi chùa của Phật giáo Bắc Tông với cổng tam quan dẫn vào vườn thiền, nơi đây lại có cổng vào mang phong cách Phật giáo Nam Tông nhẹ nhàng, nhưng chất thiền vẫn hiện rõ nét trong không gian và cả trong những công trình kiến trúc tại chùa.
Chùa Diệu Đế toạ lạc bên bờ sông Hộ Thành, người Huế gọi là sông Gia Hội, hoặc sông Đông Ba, nay là số 100B đường Bạch Đằng, gần cầu Gia Hội. Chùa Diệu Đế có một vị trí quan trọng trong lịch sử Phật giáo ở Huế. Chùa nguyên là phủ của vua Thiệu Trị trước khi lên ngôi nên đã có cảnh quan rất đẹp, với vườn tược rộng rãi, cây cối xanh tươi. Năm 1844 nhà vua đã tôn tạo và sắc phong làm Quốc tự. Chùa trở thành một danh lam của đất kinh kỳ.
Tuy nhiên chùa cũng trải qua nhiều biến động lịch sử cho nên đã không còn như ngày xưa. Năm 1885 lúc vua Hàm Nghi đánh pháp và phải bỏ kinh thành xuất bôn ra Quảng Trị, cung điện bị Pháp chiếm đóng, chính phủ Nam Triều phải trú ngụ và làm việc ở đây. Nhà cửa bị trưng dụng cho nhiều mục đích: Trí Tuệ Tịnh Xá làm phủ đường Thừa Thiên, Tường Từ Thất làm thành ngân khố và sở đúc tiền, một tăng xá biến thành nhà lao, một tăng xá khác thành đài quan trọng. Năm 1887 hầu hết các công trình kiến trúc của chùa bị triệt hạ và sang thế kỷ 20 mới được phục hồi.
Vào những năm 1960, chùa Diệu Đế là nơi xuất phát của đám rước tượng Phật, với các xe hoa và hàng vạn Phật Tử của thành phố Huế lên chùa Từ Đàm vào dịp lễ Phật Đản hằng năm. Chùa cũng là nơi diễn ra những cuộc đấu tranh của Phật giáo chống chế độ độc tài Ngô Đình Diệm và các chính quyền của miền nam sau đó. Ngày nay nét huy hoàng cũ chỉ còn thấy ở chính điện, ở các bức phướn lớn rất đẹp rũ từ trên trần xuống, ở hoa văn trang trí trên trần và các bức họa về cuộc đời đức Phật.
Cầu ngói Thanh Toàn là chiếc cầu vòm bằng gỗ với mái ngói bắc qua một con mương làng Thanh Thủy Chánh, thuộc xã Thuỷ Thanh, thị xã Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên - Huế, cách thành phố Huế khoảng 8 km về phía Đông Nam. Đây là chiếc cầu gỗ được xếp vào loại hiếm và có giá trị nghệ thuật cao nhất trong các loại cầu cổ ở Việt Nam. Cầu được Bộ Văn hoá cấp bằng công nhận là Di tích văn hóa cấp quốc gia theo Quyết định số 575QÐ/VH ngày 14 - 7 - 1990.
Cầu ngói Thanh Toàn được xây dựng theo lối "thượng gia hạ kiều" (trên nhà, dưới cầu). Cầu dài 43 thước mộc (18,75m), rộng 14 thước mộc (5,82m), chia làm 7 gian, hai bên thân cầu có hai dãy bục gỗ và lan can để ngồi tựa lưng. Trên cầu có mái che, lợp ngói lưu ly. Cầu đầu tiên được xây dựng cách đây hơn hai thế kỷ đã bao lần bị gió bão, lụt lội và chiến tranh tàn phá. Tuy nhiên, sau các lần hư hỏng, nhân dân xã đều chung nhau tu sửa, tôn tạo và gìn giữ.
Thiên An là địa danh gồm nhiều ngọn đồi trồng thông phía Tây Nam thành phố Huế, gần lăng vua Khải Ðịnh.
Trên đỉnh đồi có Tu viện Thiên An, chung quanh khu vực đồi có hồ Thủy Tiên và khu lăng mộ cổ Ba Vành, còn in dấu vết một nghi án xưa. Khung cảnh bình yên, không gian trong lành, Thiên An và Thủy Tiên là nơi nghỉ dưỡng cuối tuần khá thú vị. Hiện nay khu vực này là trung tâm vui chơi giải trí của Thừa Thiên Huế.
Đồi Vọng Cảnh là một ngọn đồi cao 43m ở phía Tây Nam thành phố Huế, chân đồi tiếp giáp bờ sông Hương. Nó tọa lạc giữa vùng lăng tẩm của các vua chúa nhà Nguyễn và đối diện với điện Hòn Chén được thiết lập từ thời xa xưa ở phái đối ngạn. Ở quanh quất cách đồi Vọng Cảnh khoảng năm bảy trăm mét là lăng Đồng Khánh, lăng Tự Đức, lăng Thiệu Trị, lăng Hiếu Đông (vợ vua Minh Mạng), lăng Xương Thọ (của bà Từ Dũ, vợ vua Thiệu Trị), lăng bà Thánh Cung (vợ vua Đồng Khánh), lăng bà Từ Cung (vợ vua Khải Định), lăng Hoàng tử Cảnh (con vua Gia Long),...Cách đồi Vọng Cảnh khoảng 300m về phía hạ lưu là Nhà máy nước Vạn Niên.
Đứng trên đồi Vọng Cảnh, người ta có được một cái nhìn bao quát đối với nhiều di tích cổ kính và những cảnh đẹp tuyệt vời ở một không gian thiên nhiên rộng lớn chung quanh, đặc biệt nhất là vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của sông Hương. Ngọn đồi nằm giữa một khúc uốn mềm mại, dịu dàng và hấp dẫn nhất của dòng sông nổi tiếng đa tình và gợi cảm này. Đây là nơi sông núi xích lại gần nhau để tạo ra một không gian sơn kỳ thủy tú. Ý nghĩa của địa danh Vọng Cảnh là như vậy.
Điện Hòn Chén tọa lạc trên núi Ngọc Trản, thuộc làng Ngọc Hồ, phường Hương Hồ, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Núi Ngọc Trản xưa có tên là Hương Uyển Sơn, sau mới đổi tên là Ngọc Trản (có nghĩa là chén ngọc), dân gian vẫn quen gọi là Hòn Chén vì nó có liên quan đến giai thoại về vua Minh Mạng đánh rơi chén ngọc.
Khoảng 10 công trình kiến trúc xinh xắn của ngôi đền đều nằm ở lưng chừng sườn đông nam thoai thoải của ngọn núi, ẩn mình dưới bóng dâm của một khóm rừng cổ thụ tán lá xum xuê. Những hệ thống bậc cấp chạy từ đền cao xuống tận bến nước trong xanh. Mặt sông phẳng lặng như gương, được dùng cho toàn cảnh thiên nhiên và kiến trúc nghiêng mình soi bóng. Dù thuyền cập bến, đứng nhìn lên, khách dễ tưởng mình đang lạc vào chốn thần tiên.
Điện Hòn Chén là ngôi điện duy nhất có một vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh của người dân xứ Huế và đó cũng là ngôi điện duy nhất ở Huế có sự kết hợp giữa nghi thức cung đình và tín ngưỡng dân gian; giữa lễ hội và đồng bóng; giữa văn hóa tâm linh và mê tín dị đoan. Đây cũng là nơi trang trí mỹ thuật đạt đến đỉnh cao vào cuối thế kỷ 19. Điện còn là sự pha trộn của nhiều tín ngưỡng tôn giáo mang sắc thái đa dạng.
Điện Hòn Chén không chỉ là một di tích lịch sử và tôn giáo mà còn là một thắng cảnh, một điểm tham quan văn hóa độc đáo thu hút hàng ngàn khách tham quan, nhất là vào dịp lễ hội tháng 3 và tháng 7 Âm lịch hàng năm.
Bãi biển Thuận An là một bãi biển thuộc thị trấn Thuận An, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên - Huế, biển nằm ngay bên cạnh cửa biển Thuận An. Cùng với biển Lăng Cô, phá Tam Giang thì biển Thuận An cũng chính là một kiệt tác của thiên nhiên ở Huế thu hút du khách mọi miền. Đây chính là nơi sông Hương xuôi dòng hướng phá Tam Giang rồi đổ ra biển Đông, hòa cùng đại dương mênh mang. Do vậy mà bãi biển Thuận An mang một vẻ đẹp riêng giữa ánh sắc của dòng sông hiền hòa và biển cả rộng lớn.
Khách du lịch Huế đi từ trung tâm thành phố muốn chiêm ngưỡng bãi biển Thuận An chỉ phải mất chừng 20 phút đi taxi, nửa tiếng đi xe máy hoặc 45 phút dạo trên xe đạp.
Bãi biển Thuận An chưa được đưa vào khai thác du lịch nhiều nên vẫn giữ được vẻ đẹp nguyên sơ, đâu đó là nét đẹp bí ẩn hết sức đằm thắm như người xứ Huế, làm trái tim người về cứ thổn thức nhớ thương và tò mò muốn khám phá mãi. Với sức hút của mình, trong tương lai, bãi biển Thuận An hẳn sẽ là một trong những điểm đến làm nên nét du lịch Huế đáng để tự hào. Nếu đi buổi sáng thì ngắm bình minh ở biển Thuận An là một trong những trải nghiệm tuyệt vời của du khách về nơi đây.
Nếu đi buổi chiều, ngoài tắm biển, bạn có thể trải nghiệm các món hải sản ở đây, đặc biệt có đặc sản bánh ép Thuận An cực kỳ nổi tiếng.
Cảnh Dương là một trong những bãi biển đẹp ở Thừa Thiên Huế, cách thành phố Huế chừng 60 km về phía Nam. Bãi biển Cảnh Dương dài 8km, rộng 200m, hình vòng cung, nằm giữa mũi chân Mây Tây và chân Mây Ðông, bờ biển có độ dốc thoai thoải, cát trắng mịn, nước biển trong xanh và tương đối kín gió rất thuận lợi cho việc tổ chức các loại hình du lịch và thể thao.
Lăng Cô là một thị trấn thuộc huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên - Huế, Việt Nam. Địa danh "Lăng Cô" có người cho rằng là do người Pháp đọc trại tên "An Cư", vốn là làng chài ở phía nam đầm. Cũng có người cho rằng lúc trước ở Lăng Cô có nhiều đàn cò, nên được gọi là Làng Cò, sau đó được dân địa phương đọc trại lại là Lăng Cô.
Bãi biển Lăng Cô là một danh lam thắng cảnh thiên nhiên của tỉnh Thừa Thiên - Huế, cùng với cụm Hải Vân non nước được đưa vào danh sách các khu du lịch quốc gia Việt Nam. Bãi biển Lăng Cô từ lâu đã nổi tiếng là một bãi biển có các điều kiện tự nhiên và phong cảnh vào loại đẹp nhất ở Việt Nam với bãi cát trắng dài tới hơn 10 km, làn nước biển trong xanh bao la tuyệt đẹp, bên cạnh đó là những cánh rừng nhiệt đới rộng lớn trên những dãy núi nhấp nhô, nằm giữa núi rừng và biển là đầm Lập An rộng lớn (800ha) đầy huyền bí.
Lăng Cô là nơi tập trung nhiều tài nguyên du lịch phong phú như: bờ biển, bãi cát mịn, đầm hồ, sông suối, núi đồi, bên đèo Hải Vân, gần rừng nguyên sinh Bạch Mã và các di tích lịch sử...sẽ tạo ra các sản phẩm du lịch đa dạng nhất thỏa mãn các loại hình du lịch.
Đầm Lập An (hay còn gọi là đầm An Cư) nằm cạnh quốc lộ 1A, đoạn qua thị trấn Lăng Cô, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên – Huế 15km2 của khu đầm ở ngay dưới chân đèo Phú Gia được dải núi Bạch Mã hùng vĩ bao quanh, phía trước là vịnh Lăng Cô xanh ngọc bích.
Suối Mơ hay còn có tên gọi là Thác Mơ là con suối thuộc huyện Nam Đông của tỉnh Thừa Thiên Huế. Nơi đây nằm ở vị trí vô cùng lý tưởng nên nó luôn là địa điểm thích hợp để du khách cả hai tỉnh thành Huế và Đà Nẵng chọn lựa để tới khám phá.
Điều gây ấn tượng nhất của khu Suối Mơ Huế này chính là hình ảnh 3 con thác cao ngất ngưỡng. Nước từ trên đổ xuống trắng xóa một vùng trời. Tất cả tạo nên một bức tranh kỳ vĩ. Phía dưới là mặt hồ trong veo. Nước ở đây rất trong, trong đến mức bạn có thể nhìn rõ những hòn đá nằm ở tận phía dưới đáy hồ.
Hiện nay nên Suối Mơ Huế ngày càng được nhiều người biết tới. Không chỉ người bản địa mà khách du lịch trong và ngoài nước cũng rất yêu thích địa điểm du lịch dã ngoại đi phượt này.
Ngày xưa, Hải Vân Quan là một vị trí chiến lược xung yếu của Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế về quân sự cũng như giao thông bằng đường bộ, đó là cửa ngỏ phía nam của vùng đất này. Hải Vân Quan nằm ở đỉnh đèo vắt qua một rặng núi đâm ngang ra biển từ dãy Trường Sơn. Đỉnh đèo Hải Vân ở độ cao 496m so với mực nước biển cách Huế 77,3km về phía Nam và cách Đà Nẵng 28,7km về phía bắc.
Trong "Dư địa chí" đầu tiên của nước ta do Nguyễn Trãi biên soạn vào năm 1435, tác giả đã nói đến địa danh "Ai Vân", như là một yếu điểm trên con đường từ Thuận Hóa đi vào Quảng Nam.
Và hiện nay, cùng với Lăng Cô - Bạch Mã - Cảnh Dương, Hải Vân Quan là một điểm đang thu hút du khách trong và ngoài nước đến tham quan thưởng ngoạn cảnh đẹp hùng vĩ của núi rừng và biển.
Vườn quốc gia Bạch Mã là một vườn quốc gia thuộc tỉnh Thừa Thiên - Huế, cách thành phố Huế 40 km. Được thành lập theo quyết định số 214-CT ngày 15 tháng 7 năm 1991 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam.
Với diện tích 22.030ha, chủ yếu nằm trên 2 huyện Phú Lộc và Nam Đông thuộc tỉnh Thừa Thiên - Huế. Núi Bạch Mã với độ cao 1.450m so với mực nước biển là đỉnh núi cao nhất của vườn quốc gia Bạch Mã.
Vườn có tính đa dạng sinh học cao. Thực vật ở đây gồm 2.147 loài, trong đó có một số loài hiếm và có giá trị như hoàng đàn giả, trầm hương. Động vật đã ghi nhận được 1.493 loài, đặc biệt có một số loài thú mới được phát hiện ở Việt Nam như sao la.
Về côn trùng, vườn quốc gia Bạch Mã đã xác định được 894 loài của 580 chi và nằm trong 125 họ và 17 bộ, gồm bộ Cánh vảy với 310 loài, 190 chi, 22 họ; bộ Cánh cứng với 200 loài, 145 giống, 17 họ. Bộ Cánh nửa có 60 loài, 47 chi và 12 họ. Chiếm số lượng thấp nhất là bộ Cánh da với 3 loài, 3 chi và 3 họ.
Từ thành phố Huế đi gần 30 km về phía nam theo quốc lộ 1A, rồi theo con đường làng râm mát cây xanh đi thêm 10km nữa, du khách sẽ đến hồ Truồi (xã Lộc Hòa, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên - Huế).
Hồ Truồi có diện tích khoảng 400 ha, dung tích lòng hồ đến 60 triệu mét khối nước, là công trình thủy lợi lớn nhất ở Huế. Đập Truồi ngăn nước cao 50 mét được tỉnh Thừa Thiên - Huế xây dựng vào năm 1996. Có bốn con suối đổ vào hồ Truồi, là suối Hợp Hai, Vũng Thông, Ông Viên và Ba Trại.
Vào suối, bạn có thể tham gia vào việc câu cá, thả lưới hết sức hấp dẫn và thú vị. Ngoài ra, bạn sẽ được chìm trong không gian yên tĩnh và thanh bình, cảm nhận được nét hoang dã của núi rừng và thiên nhiên.
Đây là loại hình du lịch hết sức thú vị và bổ ích cho các bạn trẻ. Nếu có dịp, hãy cùng bạn bè hay gia đình của mình trải nghiệm những cảm giác thích thú mà không tốn quá nhiều tiền bạc và thời gian.
Thuộc Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã là ngôi thiền viện đầu tiên tại miền Trung, tọa lạc tại núi Bạch Mã, khu vực hồ Truồi, xã Lộc Hòa, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ở độ cao 1450m, cách biển Đông 5km đường chim bay, nhiệt độ thường từ 19 - 21oC, Bạch Mã được xem là một trong những vùng khí hậu lý tưởng. Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã hiện lên giữa lòng Hồ Truồi như một đóa hoa, gối đầu vào núi rừng Bạch Mã trải dài hút mắt.
Từ thành phố Huế xuôi về Nam khoảng 30 km, đến địa phận xứ Truồi, đi vào Đập Truồi, vượt hết dốc thoải bên lưng đồi, một bức tranh thủy mặc sinh động hiện ra. Bên kia bờ nước, dưới chân ngọn linh sơn, những tổ đường, chính điện, tăng đường, trai đường, phương trượng, lầu chuông, tháp xá lợi soi bóng xuống gương nước hồ Truồi, xa xa là những vờn mây quyện quanh những đỉnh núi đã tạo nên một không gian hư ảo, thanh tịnh và yên bình.
Vượt qua lòng hồ Truồi mênh mang sóng nước, độ chừng mươi chục phút, bằng những con suồng nhỏ, sẽ đến thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã. Bước lên khỏi 172 bậc tam cấp là tam quan của Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã. Được xây dựng hài hoà trong một chỉnh thể của kiển trúc Phật giáo và Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử, Trúc Lâm Bạch Mã cũng có chính điện thờ Phật tổ đang ngồi tu niệm dưới gốc cây bồ đề, phía sau chính điện là khu vực tổ đường thờ tổ sư Đạt ma của thiền phái Trúc Lâm.
Thiền Viện Trúc Lâm Bạch Mã là một quần thể danh lam giữa vùng sơn thủy hữu tình đã trở thành địa chỉ tham quan cho du khách thập phương khi đến với vùng đất cô đô Huế.
Đá Dăm là một ngọn thác nhỏ ở Dương Hòa, thị xã Hương Thủy. Bạn có thể tổ chức cùng gia đình, bạn bè đến đây vui chơi, tắm mát vào những ngày nghỉ. Từ trung tâm TP Huế, có hai đường đến thác: một là men theo đường qua công trình hồ Tả Trạch hai là đi theo hướng cầu Tuần, qua bến đò Tân Ba.
Xuất phát theo hướng cầu Tuần, chúng ta sẽ dễ dàng mua được thức ăn tươi hoặc một số nông sản địa phương ở chợ quê. Gặp mùa thanh trà, đừng quên ghé vào một số vườn cây bên đường, vừa thưởng ngoạn phong cảnh, vừa mua đặc sản này mang theo giải khát.
Đường đến thác khá hoang sơ nên rất thích hợp với những người thích phiêu lưu bằng xe máy, đặc biệt là các bạn trẻ. Muốn chinh phục độ cao, đón dòng nước đầu nguồn, hãy chuẩn bị thật kỹ để không bị trượt chân khi men theo những vách đá dựng đứng bạn cũng có thể thỏa sức vui đùa ở hồ nước mát lạnh bên dưới thác. Ai lãng mạn thì đi hái hoa rừng, tìm sim chín...
Trên đường vào thác có một căn nhà nhỏ của Kiểm lâm Hương Thủy. Các anh nhân viên sẽ là những thổ địa cung cấp nhiều thông tin bổ ích về con người, sinh vật khu vực này. Nếu gặp khó khăn trong việc đi lại, tìm kiếm nước uống...đừng ngần ngại mở lời xin giúp đỡ.
Một người dân địa phương cho biết: "Thác Đá Dăm là điểm đến thú vị của nhiều học sinh, sinh viên Huế vào mùa hè. Phong cảnh còn nét nguyên sơ nên các bạn trẻ sẽ có những bức ảnh cực đẹp. Nếu trong đoàn có trẻ nhỏ, phải cẩn thận do hồ nước khá sâu và vách đá khá cheo leo".
Nước khoáng Thanh Tân Huế nằm sâu hàng nghìn mét dưới lòng đất, chứa Calcium Sunfat và Silicium...rất tốt cho cơ thể. Vì thế, đây là điểm đến thích hợp với nhiều du khách trong tiết trời se se lạnh, giao mùa.
Được phát hiện năm 1928 bởi các nhà khoa học Pháp, suối khoáng Thanh Tân nhanh chóng được nghiên cứu, ứng dụng làm nước giải khát phục hồi sức khỏe con người. Năm 1983, nguồn nước này được Bộ Y tế cho phép khai thác làm nước uống đóng chai. Tuy nhiên, đến cuối năm 2000, khu du lịch suối nước khoáng Thanh Tân mới trở nên thông dụng và được nhiều người biết tới.
Khu du lịch suối khoáng Thanh Tân xây dựng trên diện tích 50 ha. Bên cạnh những dãy núi cao ngất là những quả đồi được tạo hóa sắp xếp liền kề. Màu xanh của núi rừng, cây cỏ đã tạo cho khách cảm giác thư thái, dễ chịu ngay từ phút đầu tiên. Đặt chân tới chốn này, bạn có thể bách bộ, ngắm những giò phong lan rừng tuyệt đẹp hay thưởng thức những ly trà nóng được chiếc xuất từ loại hoa chỉ được trồng tại Thanh Tân. Du khách sẽ được thả mình trong dòng nước khoáng nóng trong lành, để tận hưởng cảm giác thư giãn, nghỉ ngơi sau những ngày làm việc căng thẳng.
Thiên nhiên ban tặng cho nơi đây món quà vô giá, đó là nguồn nước khoáng nằm sâu hàng nghìn mét dưới lòng đất và xuất lộ trên đỉnh đồi ở nhiệt độ hơn 60 độ C, hàm chứa Calcium Sunfat và Silicium..., tốt cho cơ thể. Trong tiết trời se se lạnh của mùa thu, nước khoáng nóng Thanh Tân chắc chắn trở thành điểm đến lý tưởng, nhất là với du khách miền Trung, vốn không quen với tiết trời lạnh.
Sát chân núi có dòng suối tự nhiên đẹp như tranh, có con đường uốn lượn. Ðây là vùng trồng cây ăn quả, cây lấy dầu. Khu trung tâm giữa rừng cây xanh là nơi ngâm tắm nước khoáng nóng. Bạn có thể chọn cho mình một trong những điểm ngâm tắm ngoài trời phù hợp, được vẫy vùng trong dòng suối ấm áp đang tỏa hơi mờ mịt hay trong suối nước khoáng tinh khiết lượn quanh đồi với nhiệt độ từ 35 - 42oC, trong hệ thống hồ đa dạng như hồ đôi, hồ gia đình, hồ bơi tạo sóng biển...
Khu du lịch nước khoáng Thanh Tân còn có một sân chơi rộng rãi để đốt lửa trại hoặc tổ chức văn nghệ vào những buổi dã ngoại ban đêm. Sau nhiều giờ ngâm tắm, bụng đói cồn cào, bạn sẽ ngon miệng hơn với đĩa cá rô nuôi bằng nước khoáng, chiên ròn thơm phức trong những lều tranh xinh xắn bên hồ sen ngát hương.
Cách trung tâm thành phố Huế khoảng 15 km, đầm Chuồn là một phần trong hệ thống đầm phá Tam Giang. Nơi đây mang dáng vẻ của một vùng đất mênh mông sông nước với hình ảnh con người chân chất, thật thà.
Ở mỗi thời điểm khác nhau trong ngày, đầm Chuồn lại khoác lên mình một dáng vẻ mới, quyễn rũ, bình dị và đẹp đến nao lòng. Do vậy, đến đây vào bất kỳ thời điểm nào trong ngày, bạn đều cảm nhận trọn vẹn vẻ đẹp của nơi này. Đặc biệt, cảnh vật trở nên huyền ảo hơn vào mỗi sáng sớm và hoàng hôn, đây cũng là thời điểm được các nhiếp ảnh đến để săn những bức ảnh đẹp.
Bạn có thể lựa chọn di chuyển trên những chiếc xuồng nhỏ để tham quan đầm Chuồn. Ngoài ra, bạn có thể tham gia các hoạt động như đánh bắt hải sản, câu cá...
Đầm Thủy Tú là một trong ba đầm phá hợp thành hệ đầm phá Tam Giang Cầu Hai, đó là phá Tam Giang, đầm Thủy Tú và đầm Cầu Hai. Theo địa chí Thừa Thiên Huế do Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội xuất bản năm 2005 thì Đầm Thủy Tú bao gồm: đầm An Truyền, Thanh Lam (Sam), Hà Trung và Thủy Tú. Đầm Thủy Tú kéo dài từ cầu Thuận An đến Cồn Trai trên chiều dài 33km. Chiều rộng đầm biến đổi từ 0,5km (đầm Thủy Tú) đến 5,5km (đầm An Truyền), trung bình 1,8km, chiều sâu đầm thay đổi từ 1 - 1,5m đến 3 - 5m tùy thuộc khu vực, nhưng phổ biến là 1,5 - 2m. Diện tích mặt nước của đầm tới 60km. Đây là một địa danh Lịch sử văn hóa và Du lịch của tỉnh Thừa Thiên Huế, có nhiều cảnh đẹp và các sản vật nổi tiếng.
Đầm Cầu Hai thuộc huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế, là khu đầm lớn nhất thuộc hệ thống phá Tam Giang. Nước trong đầm là nước ngọt, thường chuyển sang lợ vào mùa khô, đây là nơi hứng nước của các con sông lớn trong địa phương.
Đầm Cầu Hai với diện tích 11.200 ha. Cửa Tư Hiền thông đầm Cầu Hai với biển. Hệ đầm hứng nước gần như tất cả các con sông lớn trong tỉnh Thừa Thiên nên nước đầm tương đối ngọt rồi chuyển sang nước lợ vào mùa khô. Đầm Thủy Tú nối từ đầm Cầu Hai tạo nên thủy vực phía bắc, lượn qua phá Tam Giang. Từ đây, có thể theo dòng sông Hương đi ngược lên Huế.
Phá Tam Giang là một phá nằm trong hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai. Diện tích phá Tam Giang khoảng 52 km2, trải dài khoảng 24 km theo hướng tây tây bắc - đông đông nam từ cửa sông Ô Lâu đến cửa sông Hương, thuộc địa phận của bốn huyện, thị Phong Điền, Quảng Điền, Hương Trà và Phú Vang thuộc tỉnh Thừa Thiên - Huế. Phá Tam Giang là một phá lớn của Việt Nam, chiếm khoảng 11% diện tích đầm phá ven bờ của cả nước.
Độ sâu của phá này từ 2 – 4m, có nơi sâu tới 7m. Hàng năm khai thác trên vùng đầm phá hàng nghìn tấn hải sản, cá, tôm các loại. Hiện nay có kế hoạch nghiên cứu đầu tư xây dựng cầu qua Phá Tam Giang để có điều kiện phát triển kinh tế và du lịch tại vùng này.
Chợ nổi là một trong những đặc trưng của vùng đầm phá lớn nhất Đông Nam Á này. Các phiên chợ nổi thường bắt đầu từ 4:00 sáng và tan khi bình minh ló rạng (thường vào khoảng 6:00 - 07:00). Không đông đúc và đa dạng như các phiên chợ nổi ở miền Tây Nam Bộ, chợ nổi ở đây chủ yếu là mua các loại thủy sản của vùng đầm phá.
Lễ hội Điện Hòn Chén diễn ra một năm hai kỳ - tháng ba (lễ Xuân Tế) và tháng bảy (lễ Thu Tế).Lễ hội diễn ra ở Điện Hòn Chén trên núi Ngọc Trản và đình làng Hải Cát, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Lễ Hội suy tôn Thiên Y A Na Thánh Mẫu.
Hàng năm hai lần vào dịp xuân tế (mồng 2, mồng 3 tháng 3) và thu tế tháng 7, Điện Hòn Chén lại làng Hải Cát, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế lại tấp nập người trẩy hội Thiên Y A Na Thánh mẫu. Nghi lễ diễn ra rất long trọng. Dân làng tổ chức tế tại đình, trước ngày chánh tế có lễ nghinh thần để rước tất cả các vị thần trong làng về đình. Trong đó đám rước Thiên Y A Na Thánh Mẫu từ Huệ Nam đến đình làng Hải Cát tổ chức trọng thể hơn cả.
Thiên Y A Na Thánh Mẫu, nguyên xưa là nữ thần của người Chăm có tên là Pô Yang Inô Nagar, gọi tắt là Pô Nagar, tức Thần Mẹ Xứ Sở, mà theo truyền thuyết Chăm là Thần đã sáng tạo ra đất đai, cây cối, rừng gỗ quí, lúa, bắp,... và dạy dân cách trồng trọt.
Cứ 3 năm, ngư dân làng Thái Dương Hạ (xã Hải Dương, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế) lại tổ chức lễ hội cầu ngư với ước mong một năm ra khơi bội thu.
Lễ hội cầu ngư làng Thái Dương Hạ diễn ra trong hai ngày 10 - 11 tháng Giêng. Đây là lễ hội lớn của ngư dân địa phương, ba năm mới được tổ chức một lần vào dịp đầu xuân với ý nghĩa cầu cho một năm mới ra khơi đánh bắt được cá, tôm.
Làng Thái Dương Hạ thờ vị thành hoàng làng có tên là Trương Quý Công (tên huý là Trương Thiều). Đó là người có công khai khẩn và truyền nghề đánh bắt cho dân trên đầm, phá và ngoài biển khơi.
Trong lễ hội cầu ngư, phần lễ được ví như một cuộc tiếp xúc giữa người sống và người chết; phần hội có các diễn xướng gồm hát bội, làm trò bủa lưới và thi tranh tài đua thuyền, bơi trải...Sau khi vị trưởng làng thắp nén nhang lên bàn thờ thành hoàng, tiếng trống lệnh vang lên báo hiệu lễ hồi cầu ngư bắt đầu.
Hội vật Làng Sình được tổ chức vào ngày 10 tháng Giêng âm lịch hàng năm, Lễ hội đấu Vật làng Sình được tổ chức tại khu vực đình làng Lại Ân (còn gọi là làng Sình), xã Phú Mậu, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Đây là một hoạt động văn hoá truyền thống, giàu tinh thần thượng võ của người bản địa. Các đô vật sẽ thi đấu theo thể thức vòng tròn.
Hội vật Làng Sình ngoài yếu tố tâm linh như mong cho dân khoẻ, làng yên, mùa màng tươi tốt, hạnh phúc đến với muôn người còn là một hoạt động vui, khoẻ đầy tinh thần thượng võ, kích thích việc rèn luyện sức khoẻ, lòng dũng cảm, sự tự tin, mưu trí đối với lớp trẻ.
Hội chợ xuân Gia Lạc do Đinh viễn công Nguyễn Phước Bình sáng lập được tổ chức hàng năm tại thành phố Huế từ mồng 1 đến mồng 3 Tết.
Điều đáng lưu ý là quanh năm suốt tháng, chợ này không họp, mà mỗi năm chỉ họp đúng trong ba ngày Tết, sau đó thì giải tán, và chờ đến đầu Xuân năm sau mới xuất hiện trở lại.
Gia Lạc là một địa danh ở các trung tâm thành phố Huế 3km, nằm cách bờ sông Hương khoảng 300m. Bên cạnh chợ Gia Lạc là chợ Nam Phổ, và đối diện ở phía bên kia sông là chợ Dinh. Hai chợ này ngày nào cũng có họp và tên chợ đã đi vào ca dao cổ (Mua cau Nam Phổ, mua trầu chợ Dinh) của đất thần kinh.
Hội đua ghe truyền thống tỉnh Thừa Thiên Huế là một ngày lễ hội mới được tổ chức sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam 1975.
Hội được tổ chức trong một ngày, nhằm ngày lễ Quốc Khánh 02 - 09 (dương lịch). Địa điểm đua là bờ Sông Hương trước trường Quốc Học. Hội nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho thanh niên nam nữ có cơ hội thi tài trên sông nước, qua đó rèn luyện tăng cường bảo vệ sức khỏe và tạo không khí vui tươi lành mạnh cho nhân dân. Đây cũng là dịp để biểu lộ lòng vui mừng của nhân dân vào ngày Quốc Khánh. Quy mô hội có tính chất rộng rãi liên phường xã và các huyện trong tỉnh. Hội tổ chức theo định kỳ, mỗi năm một lần theo phong tục.
Cơm hến là một đặc sản ẩm thực Huế. Cơm hến được trình bày dưới hình thức là cơm nguội trộn với hến xào qua dầu và gia vị, nước hến, mắm ruốc, rau bắp cải, tóp mỡ, bánh tráng nướng, mì xào giòn, ớt màu, đậu phộng nguyên hạt, dầu ăn chín, tiêu, bột ngọt và muối. Các món cải biên như bún hến và mì hến không phải là đặc sản Huế.
Hến ngâm nước gạo một thời gian để thải hết bùn đất, rửa sạch, đem luộc cho đến khi hến mở vỏ. Lấy nước luộc sau khi đã để lắng, đổ hến ra sàng để lấy thịt hến. Thịt hến và nước hến là hai vị chính của cơm hến, ngoài ra thì cũng không thể thiếu các loại gia vị đi kèm. Các phần khác gồm có: cơm trắng để nguội, khế chua, rau thơm, dọc mùng, bắp chuối thái chỉ, nước mắm, hồ tiêu, hành phi, muối vừng, ớt tượng, tóp mỡ, da heo phơi khô chiên phồng, mắm ruốc sống, đậu phộng rang vàng nguyên hạt, ớt bột tao dầu.
Tất cả đều để nguội. Duy có nước hến phải được giữ cho nóng sôi. Bát cơm hến được trộn từ tất cả các thành phần trên rồi chan nước hến. Cơm hến thường được ăn với ớt thật cay mới đúng vị; còn đối với bún hến thì có lẽ sẽ ngon hơn nếu ăn khô (tức là không chan nước hến khi ăn).
Bún bò là một trong những đặc sản của xứ Huế, mặc dù món bún này phổ biến trên cả ba miền ở Việt Nam và cả người Việt tại hải ngoại. Tại Huế, món này được gọi đơn giản là "bún bò" hoặc gọi cụ thể hơn là "bún bò giò heo". Các địa phương khác gọi là bún bò Huế, "bún bò gốc Huế" để chỉ xuất xứ của món ăn này.
Món ăn có nguyên liệu chính là bún, thịt bắp bò, giò heo, cùng nước dùng có màu đỏ đặc trưng và vị sả và ruốc. Đôi khi tô bún còn được thêm vào thịt bò tái, chả cua, và các loại nguyên liệu khác tùy theo sở thích của người nấu.
Trong nước dùng của bún, người Huế thường nêm vào một ít mắm ruốc, góp phần làm nên hương vị rất riêng của nồi bún bò Huế. Sau khi xương bò được hầm chín tới, người ta thường thêm vào một ít chả heo hay chả cua được quết nhuyễn. Thịt bò có thể được xắt mỏng, nhúng vào nước dùng đang sôi trước khi cho vào tô bún (gọi là thịt bò tái). Người ta cũng thường cho thêm một ít ớt bột và gia vị vào tô bún rồi ăn với rau sống gồm giá, rau thơm, xà lách, rau cải con, bắp chuối xắt nhỏ.
Bún thịt nướng là một món ăn phổ biến và được yêu thích của cả Ba miền đất nước. Bún thịt nướng mỗi nơi đều giữ cho mình một hương vị đặc trưng riêng tùy theo khẩu vị từng miền Bắc, Trung, Nam. Món bún này có thể dùng làm điểm tâm, bữa chính hay giữa bữa đều phù hợp, rất ngon và hấp dẫn.
Yêu cầu của món Bún thịt nướng là thịt được nướng vàng đều, có vị đậm đà cùng hương thơm của sả và vừng; nước mắm chua ngọt vừa ăn; và các loại rau dùng kèm đa dạng.
Bún thịt nướng Huế ăn chung với dưa chuột chẻ, đồ chua, rau sống, lạc rang, hành phi… Tất cả được cho vào một cái tô và rưới nước lèo lên. Khi ăn bạn cảm nhận được rất nhiều hương vị cùng lúc như vị ngọt nhẹ nhàng, vị béo ngậy của đậu phộng, mè, vị chua thanh mát của rau củ, hay vị cay của ớt.
Người ta thường nói Nem lụi là một trong những món ăn đặc sản Huế. Ở đường Nguyễn Huệ có hai quán nem lụi. Suốt ngày đêm quán nào cũng chật ních người ăn. Khách hàng lần đầu ăn nem lụi, ai cũng xuýt xoa khen ngon để rồi ăn tiếp lần hai, lần ba, thậm chí ăn hàng ngày và lần nào cũng vẫn cứ khen ngon.
Khi ăn, lấy bánh đa nem gói thịt viên nướng cùng với rau, thơm, khế, giá, lát chuối xanh thái mỏng, miếng vả thái sống, ớt màu...lấy lá hành buộc lại rồi chấm với một thứ nước đặc biệt gọi là nước lèo. Nước lèo dùng cho nem lụi được pha chế từ hàng chục nguyên liệu khác nhau như dầu thực vật, gan lợn, bột đao, đường, tương nước mắm, quế chi, hoa hổi trộn với nước cốt dừa.
Bên cạnh ẩm thực cung đình, khám phá ẩm thực chay ở Huế xưa là trải nghiệm được yêu thích của nhiều du khách. Đặc biệt trong thời đại đầy những cao lương mỹ vị thì món chay sẽ cho bạn thấy sức hút và ưu điểm của nó: Ăn no nhưng không đầy bụng, lạ miệng, rẻ và giúp con người hướng thiện hơn.
Tại bờ nam sông Hương như Phạm Ngũ Lão, Đội Cung, Bà Triệu, Nguyễn Công Trứ, du khách cũng sẽ dễ dàng thấy các hàng ăn chay với những cái tên thanh nhã như: Bồ Đề, Tịnh Tâm, An Lạc, Tịnh Bình... để các bạn có thể trải nghiệm. Tất nhiên, cũng có những quán chay sang trọng giá đắt hơn vì sử dụng nguyên liệu và gia vị của Đài Loan, Hong Kong, Singapor để phục vụ du khách nước ngoài.
Bánh bèo là một món bánh rất thịnh hành ở miền Trung, ngoài ra cũng phổ biến ở miền Nam Việt Nam. Bánh bèo đã trở thành một nét đẹp trong văn hóa ẩm thực của người dân Viêt Nam từ bao đời nay.
Ở miền Trung, bánh bèo thường được phân ra làm hai loại là bánh bèo Quảng Nam và bánh bèo Huế. Bánh bèo Huế có khác chút ít, bánh mỏng hơn, có bột tôm sấy, khi ăn kèm theo da heo chiên giòn. Bánh bèo miền Trung đa phần đúc bằng chén (bánh bèo chén).
Bánh bột lọc là một loại bánh Việt Nam, có xuất xứ từ Huế, được từ bằng bột sắn được lọc tinh bột, sau đó được luộc một phần nhỏ bột, hoặc dùng nước sôi nhồi kỹ và làm bánh. Nhân bánh thường bằng tôm trộn với gia vị, có thể làm nhân bằng thịt heo nạc hay hỗn hợp tôm và thịt. Sau khi vắt thành bánh, bánh được gói bằng lá chuối (hoặc có thể không gói) và hấp cách thủy hay luộc chín rồi nhúng nhanh vào nước lạnh đều được. Thường kèm thêm nước chấm.
Đây là món ăn phổ biến ở Hà Nội, Nam Định, Nghệ An, Hà Tĩnh, các tỉnh từ Quảng Bình đến Quảng Ngãi và đặc biệt là Huế.
Bánh nậm là một loại bánh và là món ẩm thực truyền thống đặc trưng của xứ Huế, cùng với bánh bèo, bánh bột lọc. Đây là thứ bánh được làm từ bột gạo vừa ngon vừa có tính chất lành (người già, trẻ em, người ốm đều có thể ăn được). Ở Huế, bánh nậm còn được làm chay, chỉ có nhân đậu xanh, dùng cho ngày rằm, mồng một. Đặc biệt, còn có bánh nậm nhân thịt cóc, dành cho trẻ còi cọc, suy dinh dưỡng, cũng ngon và hấp dẫn không kém bánh nậm tôm.
Bánh nậm dùng với nước mắm ớt pha loãng, hơi ngọt. Lúc ăn, lột bánh ra, trải lên đĩa, nên để nguyên lá gói, mùi của lá sẽ giúp người ăn đỡ ngấy. Múc nước mắm mặn tưới đều lên bánh, lấy thìa tre lóc ra, gấp thành miếng vuông vức. Bỏ vào miệng, nhớ đừng nhai vội để thưởng thức cảm giác bột gạo tan đều ra, thấm sâu, béo ngậy, thơm.
Bánh ram ít ở Huế nhân tôm được cấu thành từ 2 phần riêng biệt ghép lại với nhau, bánh ít bên trên và đế ram phía dưới. Đây là món ăn có xuất xứ từ dân gian xưa rồi sau đó mới được truyền vào cung đình Huế. Khi ăn bánh ram ít, thực khách sẽ cảm nhận được cái dẻo dai của bánh ít bao bọc nhân tôm đậm đà cùng cái giòn rụm của ram, tất cả tạo nên một hương vị và cảm nhận vị giác hoàn toàn khác biệt.
Bánh khoái ở Huế đổ bằng bột gạo xay đánh sệt với nước và lòng đỏ trứng, sau đó thêm tiêu, hành, mắm, muối, tôm bóc vỏ, thịt bò nướng thái lát, mỡ thái lát nhỏ, giá sống. Khuôn bánh khoái làm bằng gang hình tròn, to bằng hai bàn tay trẻ con có cán cầm.
Khi nào có khách ăn, mới bắc khuôn lên lò để đổ bánh. Múc một muôi bột trứng đổ vào khuôn nóng đã tráng mỡ, bột chín vàng rơm thì gắp một miếng thịt bò nướng, lát mỡ nhỏ, một vài con tôm, ít giá bỏ vào một nửa phần bánh, dùng đũa lật phần bánh còn lại úp lên thành hình bán nguyệt lật bánh cho vàng đều hai bên, xong bày ra đĩa. Bánh ngon một phần nhờ nước lèo, được chế biến rất cầu kỳ với hàng chục nguyên liệu như bột báng, gan lợn, mè (vừng), lạc rang...
Bánh ướt làm bằng bột gạo có pha bột lọc, tráng mỏng hơn. Thịt để nướng thường là thịt heo ba chỉ thái mỏng, ướp tiêu, hành, nước mắm, ngũ vị hương, mè. Thịt ướp sau vài giờ thì đem kẹp, nướng trên bếp than đỏ hồng cho đến khi đủ độ chín, dậy mùi thơm. Lấy thịt nướng này kẹp với rau thơm, giá, xà lách làm nhân để cuốn bánh ướt.
Bánh ướt thịt nướng Kim Long ngon, hấp dẫn là nhờ chấm với loại nước chấm hết sức đặc biệt, được các chủ hàng chế biến từ nước mắm nguyên chất, đường, chanh, tỏi, ớt... như một bí quyết được lưu truyền qua nhiều thế hệ.
Bánh canh là một món ăn Việt Nam. Bánh canh bao gồm nước dùng được nấu từ tôm, cá và giò heo thêm gia vị tùy theo từng loại bánh canh. Sợi bánh canh có thể được làm từ bột gạo, bột mì, bột năng hoặc bột sắn hoặc bột gạo pha bột sắn. Bánh được làm từ bột được cán thành tấm và cắt ra thành sợi to và ngắn. Bánh được bỏ vào nồi nước dùng đã hầm vừa đủ độ và đợi cho chín tới. Gia vị cho bánh canh thay đổi tùy theo món bánh canh và tùy theo khẩu vị mỗi vùng. Bánh canh có thể dùng kèm với cá đã róc xương, chả cá, giò heo, tôm và thịt.
Ở Huế từ lâu lắm rồi, dưới làng Nam Phổ xã Phú Thượng, Phú Vang cách trung tâm thành phố Huế chừng 6km, đã có nghề bán cháo bánh canh truyền thống. Tuy cũng là cháo bánh canh, nhưng nó hoàn toàn khác với bánh canh đời mới. Vì thế, nếu không quen biết thì du khách dễ nhầm lẫn.
Bánh canh Nam Phổ bắt đầu bán từ buổi chiều khoảng 13:00 trở đi, hàng bánh canh do một phụ nữ gánh đi bán dạo (ngày trước người bán trẻ hay già đều đội nón Huế, mặc áo dài). Xuất phát từ Nam Phổ, lên Vỹ Dạ, qua chợ Ðông Ba, vào Thành Nội...Trong hàng bánh canh, còn bán cả bánh lọc, bánh ít, bánh nậm,...là những thứ bánh đặc sản Huế.
Bánh canh truyền thống Nam Phổ làm bằng bột gạo (xưa không có bột mì), lại chỉ dùng tôm giã nhuyễn trộn trứng. Tô bánh canh hình dẹt, nước dùng trong và sền sệt, thơm phức. Bánh canh xứ Huế được nhiều người ưa. Giá bình dân, hợp khẩu vị những ai thích ăn cay và nóng.
Đây là món ăn nổi tiếng ở Huế và có xuất xứ từ con phố Nhật Lệ trong thành Nội, nơi tập trung hàng chục lò làm bánh. Bánh thơm dẻo, ăn rất khoái khẩu do sự kết hợp nhuần nhuyễn mùi vị giữa nhân đậu, thịt (mỡ và nạc) với gạo nếp và các loại gia vị như tiêu, hành. Người ăn quen lâu ngày thành nghiện, thành thèm.
Ăn bánh chưng Nhật Lệ khi nguội ngon hơn khi nóng. Bóc lớp lá chuối ra, màu bánh xanh thơm nhức mắt. Cắn một miếng, nhân đậu thịt mỡ màu nâu trắng béo bùi ngập chân răng.
Bánh ngũ sắc thực chất là bánh in được gói bằng giấy bóng năm màu (vàng, cam, đỏ, hồng, xanh) nên còn được gọi là bánh in ngũ sắc. Đây là loại bánh thường để dâng cúng trên bàn thờ ông bà tổ tiên trong các lễ cúng bái, Tết.
Bánh ngũ sắc có nhiều chủng loại như bánh bột nếp, bột huỳnh tinh, bột đậu xanh, bột đậu quyên, bột đậu ván, bánh hạt sen trần,...Nhưng loại bánh xưa nhất và phổ biến nhất là bánh ngũ sắc đậu xanh có in hình chữ Thọ.
Bánh đậu xanh trái cây còn được gọi là bánh "quý tộc" không chỉ bởi sự cầu kì để làm ra bánh còn vì trước kia bánh chỉ được dùng tại các yến tiệc của Vua chú ở Hoàng Cung, hoặc trong mâm cỗ gia đình quan lại và quý tộc vào các dịp lễ thời xưa.
Nguyên liệu đơn giản, dễ kiếm bao gồm đậu xanh, rau câu, phẩm màu tự nhiên. Đậu xanh được vo, ngâm, tách vỏ lụa, đem hấp chín rồi xay nhuyễn. Hòa phần nhân đậu nhuyễn mịn cùng đường cát vào chảo sên đến khi khô đặc. Hỗn hợp đậu đường phải vừa đủ không quá nhão sẽ khó định hình, không quá cứng sẽ khiến bánh dễ bị nứt. Tiếp theo, đậu xanh sẽ được chia thành từng viên nhỏ, cắm vào que gỗ để nắn hình các loại quả như khế, ớt, xoài,...Sau khi bánh thành hình sẽ được mang đi sấy khô khoảng 5 - 6 tiếng rồi mới bước vào công đoạn quan trọng nhất lên màu cho bánh. Trước khi lên màu cho bánh, bánh được nhúng qua một lớp rau câu để tạo độ bóng bẩy bắt mắt. Để bánh mang hương vị trái cây thay vì dùng màu thực phẩm, màu bánh được tạo nên từ những màu có sẵn từ rau củ như: cam của cà rốt, vàng từ nghệ, hồng tím từ củ dền,...Nhờ những bàn tay tài hoa của người thợ làm bánh giúp bánh trở nên sống động, hấp dẫn, nhìn trông không khác gì loại trái cây thật.
Bánh đậu xanh trái cây đạt chuẩn phải có lớp ngoài bóng, màu sắc tươi sáng. Hương thơm đậu xanh lan tỏa, vỏ đông sương dẻo dai và vị ngọt bùi béo ngậy.
Khiến ai thưởng thức cũng phải xiêu lòng trước những chiếc bánh đậu xanh trái cây tí hon, xinh xắn.
Độc nhất vô nhị trong các món chè cung đình Huế phải kể đến chè bột lọc thịt heo quay. Chỉ mới thoáng nghe tên cũng đã gợi cho bất cứ ai cảm giác thích thú muốn thưởng thức ngay mùi vị của món ăn lạ lẫm này. Đó là món chè giòn dai pha lẫn vị ngọt thanh của đường phèn và béo ngậy của thịt quay, rất lạ miệng.
Ngoài món cơm hến nổi tiếng, cồn Hến còn có món chè bắp ngon mà ngoài Huế không nơi nào có được. Vùng này có bãi bồi vài chục ha. Người dân Cồn trồng bắp gần như quanh năm (trừ ba tháng lũ lụt). Bắp vùng này thơm ngon, béo ngậy vì hưởng được lớp phù sa dày trên mặt ruộng sau mỗi trận lụt.
Người ta nấu chè bắp bắt đầu từ việc chọn thứ bắp không non mà cũng không quá già. Sau khi lột vỏ bắp, dùng dao hai lưỡi thật sắc thái mỏng bắp và dùng cùi bắp luộc để lấy nước thơm ngọt đó để nấu chè (sau luộc lấy cùi bắp ra bỏ đi). Bắp thái mỏng cho vào nồi đun sôi, khuấy đều liên tục trong một giờ đồng hồ đến khi bắp chín cho đường kính vào khuấy đều (lượng đường cho vừa, không nhạt và cũng không ngọt quá). Thứ được cho thêm vào món chè bắp là cốt nước dừa trắng như sữa, thơm lừng.
Hạt sen nấu chè theo kiểu Huế được đem hấp chín, sau đó nấu chung với nước đường cát trắng hay đường phèn trong vắt cho đến khi sôi nhẹ. Vị ngọt của đường đủ thấm vào hột sen là bắc ra ngoài bếp. Để được nồi chè ngon, người nấu phải túc trực canh chừng để lửa cháy vừa phải, tay khuấy, trộn thật nhẹ nhàng, thời gian cũng chỉ vừa đủ để hạt sen "không già, không non". Nấu già, hột sen sẽ mất hương thơm tự nhiên. Nấu non, hương sen sẽ không tỏa ngát. Hương sen dịu mát tự nhiên là thứ đặc trưng của chè hạt sen xứ Huế mà không hương liệu nào thay thế được.
Món chè sen bọc nhãn lồng xứ Huế đã nổi danh khắp chốn xưa nay. Chè có vị thơm dịu mát của sen, vị ngọt thanh của cùi nhãn, ăn một lần không thể nào quên. Hột sen nấu chè theo kiểu Huế thường là hột sen tươi, vẫn còn nhựa và thơm mùi lá mới.
Hột sen màu trắng ngà, kết hợp với màu trắng trong của thịt nhãn (còn gọi là nhãn nhục) tạo ra một màu sắc rất dịu, hài hòa và thanh khiết. Hột sen chín bở được gói trong nhãn nhục mềm mại, giòn tan, hợp với sở thích và khẩu vị của nhiều lứa tuổi.
Món chè khoai tía được nhiều thực khách ưa thích vì màu sắc và hương vị. Chè được nấu từ khoai tía tím với nước cốt dừa và để nhỏ lửa đến khi vừa sánh là được, một số nơi biến tấu thêm các nguyên liệu như bột báng, trân châu, bột sắn… Ngày hè oi bức, ly chè khoai tía mộc mạc bình dị với sắc tím ngọt ngào sẽ giúp bạn thêm thanh mát.
Chè đậu ngự, đậu ván, đậu nguyên là những loại chè có xuất xứ lâu đời ở Huế. Chè được nấu mềm nhưng vẫn giữ được nguyên hạt đậu. Chè dẻo thêm đậu phụng rang giã nhỏ và nước dừa. Có thêm nước cốt dừa để tăng vị béo cho ly chè, thêm chút đậu phụng rang phảng phất hương vị thơm ngậy.
Chè táo xọn hay còn gọi là chè bông cau là một món chè ngon của Huế với cách làm đơn giản. Chỉ với các nguyên liệu chính là đường, đậu, cùng với chút cốt dừa là đã tạo được món chè ngon này rồi đó.
Lục tàu xá là món ăn vặt nổi tiếng của Huế trong những thập niên 50, 60 và đầu những năm 70 của thế kỷ trước. Trong ký ức những người Huế xưa còn lại vẫn không quên hương vị của món này nếu một lần đã thưởng thức.
Tàu xá là tên gọi theo tiếng Quảng Đông (Trung Quốc) vì đây là món ăn đã theo chân các Hoa kiều và người Minh Hương du nhập vào Việt Nam từ những thế kỷ trước. Nguyên gốc tên gọi đầy đủ của nó là lục tàu xá (lục đậu sa) nghĩa là "đậu xanh nát nhuyễn". Chính tên gọi cũng thể hiện một phần nguyên liệu chính làm nên món chè này, bao gồm đậu xanh, bột báng, trần bì (vỏ quýt khô) và đường cát.
Mắm sò Lăng Cô là một loại đặc sản mắm Huế mà khách du lịch nào tới đây cũng phải mua về làm quà. Mắm sò Lăng Cô Huế nổi tiếng bởi cách chế biến tỉ mỉ, công phu từ khâu nguyên liệu tới khâu chế biến.
Sò dùng làm mắm lăng cô là loại sò tươi, thịt chắc, được tẩm ướp với nhiều gia vị khác như: riềng, bột ớt, muối bột...Vì vậy, mắm sò Lăng Cô – Đặc sản mắm Huế có màu đỏ tươi, hương vị rất thơm ngon.Mắm sò Lăng Cô Huế thường chỉ cần ướp khoảng 15 ngày, khi sò nổi lên là lúc ta có thể thưởng thức rồi.
Mè xửng Huế hay còn được biết đến với cái tên là mè vừng là một trong những đặc sản của Huế gắn liền người Huế từ bao đời nay. Cũng có thể nói, mè xửng đã trở thành một niềm tự hào của của những con người cố đô.
Vị ngọt của đường, sự dẻo của mạch nha cùng với sự giòn của đậu phộng cứ ăn vào một miếng khiến bạn ăn mà nhớ mãi. Mè xửng Huế còn được ví như một thứ đặc sản của Huế làm quà ngon rẻ không thể thiếu cho chuyến du lịch.
Mắm Tôm chua cũng là một đặc sản mắm Huế mua làm quà rất được khách du lịch ưa chuộng. Mắm tôm chua Huế có vị chua thanh thanh của tôm, vị ớt cay nồng, cùng với đó là rất nhiều gia vị khác đi kèm, tất cả kết hợp lại tạo thành một hương vị vô cùng độc đáo.
Nem Huế là món ăn bạn có thể bắt gặp ở bất cứ đâu trên khắp Việt Nam. Tuy nhiên nem ở mỗi vùng miền lại có một đặc trưng riêng và nem Huế cũng không ngoại lệ.
Nem Huế được làm từ các nguyên liệu và gia vị quen thuộc như thịt heo, bì heo, tỏi, ớt, hạt tiêu...được gói cẩn thận trong lá chuối, khoảng 2 - 3 ngày sau là chín. Nem Huế rất thích hợp làm quà tặng cho bạn bè, gia đình và đồng nghiệp sau chuyến du lịch Huế về.
Tré Huế cũng là món ăn cùng ho với nem. Hương vị tré cũng ngon và hấp dẫn chẳng kém gì nem. Tré Huế có 2 loại: tré bò và tré heo.
Tré bò Huế có màu nâu sẫm bắt mắt, gọi là tré bò nhưng nguyên liệu chính là thịt ba chỉ rán vàng, trộn với riềng, tỏi, thính,...bọc trong lá ổi và có lớp lá chuối ngoài cùng (giống nem). Tré heo Huế thì có màu nâu đỏ được trộn bóp với thính, tỏi, riềng,...lá đinh lăng được bọc bên trong lớp lá chuối ngoài cùng.
Kẹo cau là một món quà vặt đã có ở Huế từ rất lâu đời. Đây sẽ là món quà ở Huế rất được trẻ con yêu thích. Bởi hình dáng bên ngoài giống hệt những miếng cau đã được bổ sẵn, màu sắc bắt mắt.
Kẹo cau Huế có phần vỏ ngoài màu trắng được làm từ bột trộn đường, phần ruột bên trong là đường đã cô lại có màu vàng nhạt.
Hạt sen Huế nổi tiếng như là một vị thuốc quý vừa có tác dụng bổ dưỡng lại an thần, được dùng trong nhiều đơn thuốc. Đặc biệt hạt sen còn dùng chữa trị các chứng tiêu chảy kéo dài, suy dinh dưỡng, rất tốt cho những người thường xuyên mất ngủ, huyết áp hạ, hay đau đầu suy nhược cơ thể.
Bưởi Thanh Trà là một đặc sản dân dã của vùng đất cố đô Huế. Khác với các loại bưởi khác, bưởi Thanh Trà gây ấn tượng với lớp vỏ bưởi màu vàng chanh. Bên trong bưởi lại có vị ngọt thanh, hương vị lưu lại trong miệng rất lâu sau khi thưởng thức. Mùi thơm của bưởi Thanh Trà không chỉ có ở ruột mà vỏ, lá, hoa cũng mang một hương thơm rất dễ chịu.
Dầu tràm Huế có tác dụng giúp tránh gió, tránh cảm lạnh và phòng ho rất hiệu quả. Sử dụng được cho cả trẻ em, phụ nữ mang thai và người già. Dầu tràm Huế sẽ là món quà đặc sản của Huế rất ý nghĩa dành tặng cho người thân và bạn bè, đặc biệt là người già và gia đình có trẻ nhỏ.
Trà Cung Đình Huế là một trong những loại trà được kết hợp bởi rất nhiều loại thảo dược quý hiểm như: Tim sen, Khổ qua, Vối nụ, Atiso, Hảo quyết minh, Hồi hoa, Hồng táo, Hoa hòe, Cúc hoa, Hoài sơn, Đại táo, Cỏ ngọt, Cam thảo Bắc, Hoa lài tất cả những loại thảo dược này đều được lựa chọn và sơ chế rất tỉ mỉ, công phu, đem lại hương vị thơm ngon, thanh mát. Với những người yêu trà thì Trà Cung Đình Huế là món quà không thể bỏ qua.
Nhắc đến trà vả Huế, người ta nhớ ngay đến trà vả Lộc Mai. Trà vả Huế được sản xuất hoàn toàn từ quả vả, không sử dụng thêm bất cứ loại phụ gia hay hương liệu nào khác. Vì vậy, trà vả đặc sản của Huế mua về làm quà rất tốt cho sức khỏe.
Trà vả Huế có tác dụng như: làm giảm nguy cơ gây bệnh tim mạch, ổn định đường huyết, chữa các bệnh về đường hô hấp (như: ho gà, hen suyễn), làm mạnh dạ dày,... và nhiều công dụng khác nữa.
Rượu Cung Đình Huế Nhất Dạ Đế Vương là đặc sản nổi tiếng xứ Huế được chế biến từ gạo lứt đỏ làng Chuồn ngâm với thang thuốc Minh Mạng Thang. Rượu Cung đình Huế là món quà đặc biệt dành cho Quý ông, quý bà, hỗ trợ điều trị suy nhược cơ thể, yếu sinh lý, nhức mỏi, bồi bổ khí huyết, tráng dương, bổ thận, tăng cường sinh lực.
Mong là với cẩm nang bỏ túi này sẽ giúp ít cho các bạn có kinh nghiệm trong chuyến đi du lịch Huế tự túc thật vui và ý nghĩ.